Thông Tin Y Học và Giới Thiệu Dược Phẩm mới

Thời sự Y Học - Số 39

 


1/ CAFEINE BẢO VỆ TRÍ NHỚ CỦA CÁC PHỤ NỮ

Một nhóm nghiên cứu người Pháp thuộc Inserm đã nhận thấy ở những người nghiện café (trên 3 tách mỗi ngày) có trí nhớ ngôn từ (mémoire verbale) ít bị sa sút hơn và trí nhớ thị giác và không gian (mémoire visuo-spatiale) cũng vậy nhưng với mức độ ít hơn. Karen Richie, cộng tác với Alex de Mendonça của phòng thí nghiệm khoa học thần kinh thuộc Đaị Học Lisbonne, đã nghiên cứu mối liên hệ giữa việc tiêu thụ caféine và các hiệu năng về nhận thức (performances cognitives)  (trí nhớ, ngôn ngữ, logique..) nơi những người già trên 65 tuổi hoặc hơn. Như thế các nhà nghiên cứu đã theo dõi 4.197 phụ nữ và 2.820 đàn ông suốt trong 4 năm : các nhà khảo sát đã đánh giá các hiệu năng về nhận thức của những người này, sự xuất hiện chứng sa sút trí tuệ (démence) và việc tiêu thụ caféine vào lúc bắt đầu công trình nghiên cứu, sau 2 và 4 năm. Công trinh nghiên cứu này, được đặt tên là 3C, đã được tiến hành ở Montpellier, Dijon và Bordeaux.

« Có những suy đoán vững chắc về caféine từ khi các công trình nghiên cứu trên động vật đã gợi ý rằng caféine, bằng cách tác động lên các thụ thể adénosine, làm giảm thiểu những tổn hại trên não bộ ». Karen Ritchie đã xác định rõ như vậy trong một thông báo của Inserm.

Thật vậy, những kết quả nghiên cứu chứng tỏ rằng caféine có một hiệu quả bảo vệ, nhưng chỉ xảy ra ở phụ nữ mà thôi. So sánh với các phụ nữ chỉ uống một tách hoặc ít hơn mỗi ngày, người ta nhận thấy ở các bà nghiện nặng café ( hơn 3 tách mỗi ngày) ít có sự sa sút trí nhớ về ngôn từ (mémoire verbale) hơn , cũng như trí nhớ thị giác và không gian (mémoire visuo-spatiale) . Hiệu quả bảo vệ của café càng ngày càng gia tăng với tuổi. Ngược lại, việc tiêu thụ caféine đã không làm giảm nguy cơ mắc phải chứng sa sút trí tuệ (démence) trong 4 năm theo dõi của công trình nghiên cứu.

“ Các kết quả của chúng tôi chứng tỏ rằng các phụ nữ càng xa dần thời kỳ mãn kinh thì lợi ích của caféine càng quan trọng. Chúng tôi cần theo đuổi công trình nghiên cứu này thêm hai năm nữa để xem xét tốt hơn mối liên hệ giữa caféine và bệnh Alzheimer. Có thể việc tiêu thụ caféine không có vai trò trong sự xuất hiện của bệnh Alzheimer nhưng có ảnh hưởng trong tiến triển của bệnh này. Cần phải tìm hiểu tại sao caféine chỉ bảo vệ cho phụ nữ mà thôi : có thể là đàn ông và phụ nữ chuyển hoá caféine một cách khác nhau hoặc cũng có thể do tác dụng hổ tương của các hormone. Phải làm sáng tỏ cơ chế sinh học để đánh giá xem một điều trị với caféine có thể hữu ích hay không.”

(LE JOURNAL DU MEDECIN 17/8/2007)

2/ MAU NÓNG GIẬN CÓ THỂ LÀM GIA TĂNG NGUY CƠ ĐỐI VỚI SỨC KHOẺ

Các nhà nghiên cứu khảo sát 313 cựu chiến binh Việt Nam khỏe mạnh đã nhận thấy rằng sự giận dữ và thù địch có thể lăm gia tăng nguy cơ mắc phải bệnh tim mạch, đái đường và cao huyết áp.

Trong thời gian 10 năm theo dõi, những người này đã được khám vật lý đều đặn (bao gồm nhiều xét nghiệm y khoa khác nhau).Họ cũng được khám về mặt tâm lý học ; các bảng câu hỏi theo quy định đã được sử dụng để xác định mức độ của sự giận dữ, thù địch và trầm cảm của họ.

Các nhà nghiên cứu đã đo nồng độ của một protéine được goi là C3, một chỉ dấu (marquer) của phản ứng viêm , yếu tố nguy cơ đối với bệnh tim mạch. Sau khi kiểm tra các biến số khác, các nhà khoa học đã nhận thấy rằng những người biểu lộ mức độ thù địch, giận dữ và trầm cảm cao nhất có sự gia tăng đều đặn và đáng kể nồng độ C3 trong khi những người ở mức độ thấp nhất thì không có sự gia tăng này.

« Điều này có thể làm những người với cảm xúc nêu trên có nguy cơ gia tăng mắc phải bệnh cao huyết áp, đái đường và bệnh động mạch vành ». Stephen Boyle, tác giả lãnh đạo công trình nghiên cứu và là nhà nghiên cứu của Duke University Medical Center ở North Carolina đã nói như vậy.

Tại sao nồng độ C3 gia tăng thì không được biết đến nhưng các tác giả phỏng đoán rằng sự tức giận nơi những người thù địch và trầm uất làm khởi động một loạt các đáp ứng hóa học trong hệ miễn dịch dẫn đến quá trình viêm.

Dùng những biện pháp nhằm kiểm soát sự thù địch có thể hữu ích. “ Có những can thiệp có vẻ hữu ích trong việc hạ thấp mức độ giận dữ ”. Boyle đã phát biểu như vậy.Tôi không biết các hiệu quả lâu dài của chúng lên sinh lý đã được trắc nghiệm hay không, nhưng nếu bạn ít giận dữ và thù địch hơn thì điều này tự nó là một mục tiêu thích đáng.

(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 16/8/2007) 

3/ XÉT NGHIỆM MỚI ĐỂ PHÁT HIỆN UNG THƯ GAN

Ung thư gan rất khó phát hiện và rất thường xảy ra ở dân châu Á và châu Phi và cũng là nguyên nhân quan trọng gây tử vong trong các nước Phương Tây.Ở Bỉ hàng năm có hơn 350 trường hợp ung thư gan mới xảy ra và 60 đến 80% những bệnh nhân bị ung thư gan có tiền sử xơ gan.

Mãi đến tận ngày nay chỉ có xét nghiệm AFP ( alpha-foetoprotéine) để chẩn đoán ung thư gan.Xét nghiệm này thiếu tính đặc hiệu và thường cho những kết quả dương tính giả.Một nhóm nghiên cứu của Institut flamand de biotechnologie (VIB) ở Gand, cộng tác với các đồng nghiệp người Hoa, đã phát triển một xét nghiệm mới cho phép chẩn đoán ung thư này ở giai đoạn sớm hơn .
Để làm được điều này họ đã phân tích máu của bệnh nhân người Hoa bi xơ gan sau khi bị nhiễm trùng bởi virus de l’hépatite B và đã khám phá rằng lượng của 2 loại đường hiện diện trên các protéines trong máu biến thiên theo giai đoạn của bệnh. Ngoài ra, các trị số này tương ứng với kích thước của khối u. Chính mối tương quan này là cơ sở của xét nghiệm mới được hiệu chính. Trong 70% trường hợp, chẩn đoán đã có thể được xác lập, điều này cũng có hiệu quả như chỉ dấu khối u (marqueur tumoral) hiện dang được sử dụng trong lâm sàng. Sự kết hợp giữa test AFP với xét nghiệm mới này làm gia tăng nhiều mức độ chính xác trong chẩn đoán ung thư gan.Thật vậy, trên một nửa bệnh nhân bị xơ gan, test AFP không cho kết quả có giá trị. Xét nghiệm mới đã cho phép phát hiện ung thư gan trong những trường hợp này. Xét nghiệm cho phép lập lại nhiều lần  nơi những bệnh nhân xơ gan, nhờ vậy có thể chẩn đoán ung thư gan ở một giai đoạn càng sớm càng tốt.

(LE JOURNAL DU MEDECIN 17/8/2007)

4/ THUỐC CHỦNG CHỐNG UNG THƯ NÃO.

Được hiệu chính bởi một phòng bào chế Hoa Kỳ NWBT ( Northwest Biotherapeutics), thuốc chủng đầu tiên nhằm điều trị chồng một bệnh ung thư não, DCVaxBrain, sẽ được thương mãi hóa ở Thụy Sĩ trong khi những thử nghiệm lâm sàng sẽ được theo đuổi đến cuối năm 2008. Dường như NWBT đã lợi dụng một khe hở pháp lý về quy chế ở Thụy Sĩ để thương mãi hóa thuốc chủng này. NWBT đã đệ trình hồ sơ xin chuẩn y ở Hoa Kỳ và châu Âu. Nét độc đáo là thuốc chủng điều trị glioblastome (một ung thư có tiên lượng xấu) được cá thế hoá. Thuốc chủng sử dụng đồng thời các kháng nguyên từ khối u của bệnh nhân và những tế bào miễn dịch riêng , các tế bào  sợi  nhánh (cellules dendrtitiques). Theo những kết quả đầu tiên, thời gian sống sót trung bình của bệnh nhân tăng lên gấp đôi, từ 14 tháng lên 33 tháng.

(SCIENCES ET AVENIR 8/2007)

5/ MẶC DẦU ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ, VIRUS BỆNH SIDA VẪN NÉP MÌNH TRONG RUỘT.

Các nhà nghiên cứu người Pháp vừa khám phá rằng virus của bệnh SIDA (HIV) ẩn mình chủ yếu trong các hạch của vùng ruột. Mặc dầu có những tiến bộ đáng kể trong điều trị nhiễm trùng bởi HIV, y khoa vẫn không có thể chữa lành các bệnh nhân bị nhiễm trùng. Các dược phẩm đã cải thiện nhiều thời gian và chất lượng sống của các bệnh nhân nhưng thất bại trong việc trừ tiệt siêu vi trùng. Nơi chứa chủ yếu của virus bệnh Sida trên một bệnh nhân bị nhiễm khuẩn là ở đâu? Đây là một vấn đề mấu chốt bởi vì mãi đến nay virus luôn luôn tái xuất hiện ngay khi ngừng điều trị mặc dầu đã sử dụng nhiều thứ thuốc có tác dụng mạnh nhất.Và điều này xảy ra ngay cả sau nhiều năm điều trị và ngay cả khi lượng virus trong máu vẫn không thể phát hiện được.

Các nhà nghiên cứu người Pháp thuộc Inserm và Viện Pasteur loan báo là đã định vị được nơi virus bệnh Sida ẩn mình trong cơ thể. Một ổ dự trữ khác đã được khám phá (có vẻ là quan trọng nhất) thêm vào những nơi ẩn dấu khác như lá lách hoặc các não thất chứa đầy dịch não tủy .

SẼ CẦN ĐẾN NHỮNG NGHIÊN CỨU KHÁC.

Chúng tôi đã chứng tỏ trên các mô hình động vật ( khỉ macabique rhésus) rằng “ ổ chứa” (réservoir) này chủ yếu nằm trong các hạch màng treo ruột ( ganglions mésentériques) chứ không phải trong các mảng Peyer trong ruột già như người ta đã nghĩ từ trước đến nay. Kể cả nơi những người đã được điều trị và không có virus được phát hiện trong máu hoặc trong các hạch ngoại biên sau hơn mười năm bị nhiễm trùng. Jérome Estaquier, nhà nghiên cứu CNRS thuộc Viện Pasteur đã phát biểu như vậy.Công trình này đã được công bố on line tuần vừa rồi trong tạp chị Cell Death and Differenciation.

Mặt khác, nhóm nghiên cứu này đã khám phá rằng các lymphocyte T CD8 cytotoxique (cũng nằm trong các hạch màng treo ruột và là những tế bào có khả năng hủy diệt các tế bào bị nhiễm trùng) có một khuyết tật trong vỏ ngoài của chúng.Vì vậy các lymphocytes này chết sớm và do đó không có khả năng kiểm soát virus nép minh trong những nơi ẩn dấu này. Kết quả là virus từ các hạch màng treo ruột sẽ phân tán vào các cơ quan khác, như vậy sẽ làm dễ sự tiến triển vào giai đoạn bệnh của sida.Theo các nhà nghiên cứu này, tính mong manh của các lymphocyte cytotoxique là do sự hiện diện của một cytokine,TGF-beta (Transforming Growth Factor) làm ngăn cản đáp ứng miễn dịch được thành hình. Cytokine này cũng đóng một vài trò quan trọng trong ung thư .Còn cần đến nhiều nghiên cứu để tìm ra những phương cách hủy diệt các virus ẩn mình trong ruột này.

“ Các công trình này phải cho phép trắc nghiệm các chiến lược mới để chống lại nhiễm trùng ». Jérome Estaquier lập luận như vậy.Thí dụ có thể tìm cách phong bế cytokine này hoặc khôi phục sự sống còn của các lymphocyte cytotoxique. Cũng phải nhằm vào virus ẩn mình trong các hạch màng treo ruột để kiểm soát tốt hơn sự nhiễm trùng.

(LE FIGARO 31/7/2008)

6/ MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆC TIÊU THỤ CANNABIS VÀ SỰ PHÁT SINH BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT.

Những nghiên cứu mới xác nhận mối liên hệ giữa việc tiêu thụ với số lượng nhiều cannabis và sự xuất hiện của chứng loạn tâm thần này.

Các tác hại của cannabis, từ lâu được xem như một loại thuốc ma túy nhẹ (drogue douce), đã được đánh giá nâng cao. Ở Pháp cũng như ở khắp Châu Âu, đó là chất ma túy bất hợp pháp được tiêu thụ nhiều nhất bởi các thiếu niên.Thế mà chỉ cách nay không bao lâu những tác dụng âm tính lên trên sức khỏe tâm thần mới được đánh giá và tìm hiểu trong khi suốt trong gần 30 năm qua, cannabis được lầm tưởng xem như là một sản phẩm vô hại được sử dụng trong lễ lạc hội hè.

Theo một nghiên cứu mới được công bố trên The Lancet, nhằm vào tiến triển nhiên hậu của các người hút cannabis trẻ, thì hình như nguy cơ phát sinh những rối loạn tâm thần về sau của các thiếu niên này gia tăng hơn 40% so sánh với những thiếu niên không bao giờ tiêu thụ cannabis . Nguy cơ gia tăng này tỷ lệ thuận với lượng tiêu thụ. Do đó, những « accros au shit » ( những người nghiện Haschisch), những người hút cannabis trên 100 lần mỗi năm, sẽ bị nhiều nguy cơ nhất với gia tăng 50 đến 200% các rối loạn tâm thần xảy ra về sau này ( tâm thần phân liệt, các triệu chứng loạn tâm thần, ảo giác , các bất thường của tiến trình tư duy). Để làm cơ sở cho các kết luận này, BS Thérésa Moore của Đại Học Bristol và BS Stanley Zammit thuộc phân khoa tâm lý học y khoa của đại học Cardiff đã duyệt xét lại 35 công trình nghiên cứu được thực hiện trong các nước khác nhau, Đức, Hoà Lan, Anh, Hoa Kỳ,Thụy Điển,Tân Tây Lan. Mặc dầu dưới ánh sáng của công trình nghiên cứu mới này, vẫn khó xác nhận được rằng chính cannabis gây ra bệnh tâm thần phân liệt, tuy nhiên có vẻ chất độc này  có thể góp phần vào việc làm những cá nhân yếu ớt nhất ngã về bệnh lý tâm thần này.

BS Zammit đã công bố một bài báo gây tiếng vang vào tháng 11 năm 2002 trong British Medical Journal về những tác hại của cannabis trên  não bộ trẻ đang trong thời kỳ thành thục.Từ một nghiên cứu được tiến hành trên 50.000 tân binh trẻ tuổi người Thụy Điển, được theo dõi từ đầu những năm 1970, nhà nghiên cứu, với 30 năm nhìn lại, đã chứng tỏ rằng việc tiêu thụ cannabis đều đặn và với số lượng lớn  tự nó có thể xô đấy một thanh niên vào trong bóng đêm của bệnh tâm thần phân liệt. Trên 731 người tiêu thụ cannabis quá mức, 28 người đã trở thành tâm thần phân liệt hoặc với tỷ lệ 4% (4 lần lớn hơn mức bình thường).

Các kết quả được đối chiếu với các kết quả của một nghiên cứu khác của Thụy Sĩ (Viện Tâm Thần Học của Đaị Học Zurich), được công bố ngày 23 tháng 7 vừa rồi. Nghiên cứu này chứng tỏ sự gia tăng cao của bệnh lý này nơi những thanh niên trong những năm 1990. Những trường hợp được ghi nhận nơi những thiếu niên 15-19 tuổi được nhân gấp 3 lần và nơi những thanh niên 20-24 tuổi được nhân lên gấp 2 lần. Hai lứa tuổi này tiêu thụ nhiều cannabis nhất.

CẢNH CÁO GIỚI TRẺ VÀ CÁC BẬC CHA MẸ.

Đây khộng phải là lần đầu tiên các thầy thuốc cảnh giác về các tác dụng âm tính của tétrahydrocannabinol (THC), hoạt chất của cannabis, lên trên sức khoẻ tâm thần của các thanh thiếu niên.

« Các kết quả này phải khiến chính quyền và giới hữu trách y tế tiến hành các chiến dịch giáo dục có hiệu quả và đều đặn để cảnh giác giới trẻ và các bậc cha mẹ về các mối nguy hiểm của cannabis, từ lâu đã bị xem thường ». BS Merete Nordentoft, chuyên gia tâm thần người Đan Mạch đã phát biểu trong một bài xã luận. Theo ông « Gần 800 trường hợp tâm thần phân liệt mỗi năm ở Anh đáng lý ra có thể tránh được nếu các thanh thiếu niên từ bỏ chất ma túy cannabis này”. Đó là chưa nói đến các rối loạn khác về khả năng chú ý, trí nhớ, động cơ, nguyên nhân của những khó khăn học vấn nghiêm trọng nơi những người hút thuốc đều đặn. Cũng chưa nói đến những tác dụng làm mất sự ức chế dẫn đến những hành vi hung bạo cũng như những tác dụng nghịch lý lên chứng lo âu, trước hết có tác dụng trấn an nhưng sau đó gây nên tình trạng âu lo có cường độ mạnh hơn nhiều.

Ở Pháp cứ 2 thiếu niên tuổi 17 thì có một  đã nếm mùi cannabis. Mỗi ngày có hơn ½ triệu người hút một « joint » thuốc. Pháp thuộc vào bộ phận những người tiêu thụ cannabis nhiều nhất, bên cạnh Anh Quốc và Tây Ban Nha .Và các chuyên gia về bệnh nghiện (addictologue) lo ngại sự việc là ngày nay các « joint » có thể được tích nạp hoạt chất 10 lần nhiều hơn so với những năm 1970.

(LE FIGARO 27/7/2007)

7/ BỆNH BÉO PHÌ, NGUỒN GỐC DO SIÊU VI KHUẨN?

Vài dạng béo phì có thể có nguồn gốc siêu vi trùng : các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ đã xác nhận rằng các tế bào gốc sau khi được tiếp xúc với một siêu vi trùng thường gặp đã biến hóa thành những tế bào mỡ.

Mặc dầu khám phá này không hẳn liên quan đến toàn bộ các trường hợp béo phì, tuy vậy được thêm vào trong danh sách các lý lẽ giải thích nguồn gốc chứng béo phì không phải do ăn uống quá mức (suralimentation) hoặc do thiếu hoạt động vật lý.Từ nhiều năm nay các nhà nghiên cứu xem xét một mối liên hệ khả dĩ giữa chứng béo phì và siêu vi trùng thông thường, adénovirus-36. Siêu vi trùng này thuộc họ các virus gây nên cảm cúm và viêm kết mạc.

Các nhà nghiên cứu đã biết rằng siêu vi trùng này gây nhiễm nơi những người bị gia tăng thể trọng (surpoids) với tỷ xuất cao hơn so với những người có thể trọng bình thường : các động vật tiếp xúc với các virus trở nên có khả năng to lớn ra. Các nhà nghiên cứu đã khám phá một gène siêu vi trùng làm cho các động vật trở nên béo phì.

Các lý do về đạo đức khiến các nhà nghiên cứu không thể được phép cho người tiếp xúc với các virus này.Vì vậy họ đã phải trích lấy mỡ từ những người bị phẫu thuật hút mỡ (liposuccion).Nikhil Dhurandhar của đại học công lập Lousiane đã giải thích như vậy. Họ đã hút các tế bào gốc (cellulules souches) và in vitro đã cho các tế bào này tiếp xúc với virus. Hơn một nửa các tế bào gốc được cho tiếp xúc với virus, biến thành các tế bào mỡ và nơi dự trữ mỡ, trong khi đó chỉ có một tỷ lệ nhỏ các tế bào gốc không được cho tiếp xúc biến thành tế bào mỡ mà thôi.Nếu một nguyên nhân siêu vi trùng cho chứng béo phì được xác nhận thì khi đó một thuốc chủng có thể được hiệu chính , có lẽ trong vòng 10 năm đến đây.Tuy nhiên việc tiêm chủng này sẽ không ích lợi gì cho những người đã bị béo phì.

(METRO 24/8/2007)

8/ RUỘT NON CỦA CHÚNG TA CŨNG CÓ VỊ GIÁC.

Ăn một món ăn chứa nhiều hương liệu (aromates) có thể là nguồn gốc của những rối loạn tiêu hóa, mặc dầu không có một dạng nhiễm trùng nào xảy ra cả.Thật vậy, các nhà sinh học của đại học Munich Ludwig-Maximilian vừa khám phá rằng ruột non chúng ta chứa những tế bào cảm giác có khả năng phát hiện các hương liệu, cũng như các tế bào vị giác ở lưỡi và khứu giác ở mũi vậy. Lần đầu tiên các nhà nghiên cứu đã quan sát thấy rằng những tế bào này đặc biệt phản ứng với mùi thơm của cây húng tây (thym), của đinh hương (clou de girofle) và của quả muscade. Phản ứng này đưa đến sự phóng thích bình thường một phân tử là sérotonine. Chất này gây nên co thắt ruột và tiết dịch dạ dày. Chỉ với liều lượng cao, sự phóng thích sérotonine mới gây nên các rối loạn tiêu hóa (táo bón, đi chảy, viêm ruột non).Từ trước đến nay người ta nghĩ rằng chỉ có đường và acide béo là có thể gây nên một phản ứng như vậy..

(SCIENCE ET VIE 8/2007)

9/ TẠI SAO PHỤ NỮ SỐNG LÂU HƠN?  

Đó là một chuyện có thật : các phụ nữ sống trung bình 4,2 năm nhiều hơn đàn ông. Sự chênh lệch này có thể đạt 6 đến 8 nằm trong những nước công nghiệp hoá. Mặc dầu các ông có nhiều ngụy cơ hơn : họ có khuynh hướng hút thuốc, uống ruợu, lái xe thật nhanh, chơi thể thao và làm những nghề nguy hiểm, ít chú ý đến sức khỏe của bản thân mình…Tuy vậy các đặc điểm xã hội học không đủ để giải thích sự chênh lệch này : có một lợi thế thật sự về mặt sinh học về phia phụ nữ.

Trước hết, về khía cạnh hormones, các phụ nữ dường như được may mắn hơn : các hormones nữ, các oestrogènes, làm giới hạn sự tạo thành các cholestérol « xấu », nguyên nhân của sự tích tụ mỡ làm bít nghẽn các mạch máu ( chứng xơ mỡ động mạch). Chính những mãng mỡ này là nguyên nhân của nhồi máu cơ tim và  các tai biến mạch máu não. Hậu quả : các bệnh tim mạch, nguyên nhân gây tử vong đầu tiên ở Pháp, gây tử vong ở phụ nữ năm lần ít hơn so với đàn ông ! Các oestrogènes cũng làm dễ sự hóa sẹo của thành mạch máu và kích thích sự phóng thích oxyde d’azote (NO), khí làm giãn mạch máu (gaz dilatateur). Điều này làm gia tăng đường kính huyết quản do đó làm giảm nguy cơ tạo thành cục máu đông.Ngoài ra, nồng độ œstrogène chịu nhiều biến thiên quan trọng trong thời kỳ kinh nguyệt và có thể nhân lên 70 lần lúc thai nghén.
Kết quả : các mạch máu của các phụ nữ thường xuyên được chiều cố, lưu lượng tim gia tăng 20% trong giai đoạn 2 của chu kỳ kinh nguyệt và tăng 40% trong thời kỳ thai nghén. Điều này gần như có tác dụng của một luyện tập thể thao! Chỉ bắt đầu từ thời kỳ mãn kinh (ménaupose) là lúc nồng độ œstrogène sụt giảm đáng kể, nguy cơ tim mạch của các bà mới bắt đầu đuổi kịp nguy cơ của các ông. Chỉ từ năm 75 tuổi mới có sự ngang nhau giữa nguy cơ tim mạch giữa các ông và các bà. Sau hết, các oestrogènes kích thích sản xuất các phân tử chống oxy hóa (molécules anti-oxydantes). Các phân tử này có tác dụng làm trung hòa các gốc tự do(radicaux libres). Mà các gốc tự do này là những nguyên tố hóa học có liên quan trong sự lão hóa các tế bào, làm tổn hại các thành tế bào, các protéine hoặc ADN.

Nhưng đây cũng là một vấn đề của nhiễm sắc thế (chromosomes).Trong khi ở nam giới có một X và một Y thì ở nữ giới có 2 X. Khi qúy bà càng già cả thì X thứ hai này cũng có thể được hoạt hóa, cho phép thay thế các gènes đã bị hư hại do tuổi tác bằng các gènes mới.Và việc này có liên quan đến một số lượng gènes không phải là nhỏ : nhiễm sắc thể X chứa không ít hơn 5% génome (từ 900-1200 gènes) so với 0,4% đối với nhiễm sắc thế Y (dưới 80 gènes).Ngoài ra ADN của phụ nữ tuồng như được bảo vệ hơn : ở phụ nữ , các đầu mút nhiễm sắc thể (télomètres) dài hơn và bảo vệ các gènes lâu hơn. Còn phải nói thêm rằng hệ miễn dịch của phụ nữ có hiệu năng hơn trong việc sản xuất các kháng thể chống lại nhiễm trùng.

Mặc dầu có nguy cơ liên quan với việc sinh đẻ, “phái yếu » lại mạnh nhất về phương diện sinh học.Theo Thomas Perls, chuyên gia về sự lão hóa ở đại học Boston , thì đó chỉ là lý do của sự tiến hóa : « Sống lâu hơn cho phép các phụ nữ nuôi nấng càng nhiều con cái hơn ».

(SCIENCE et VIE 8/2007)

10/ SỐNG LÂU HƠN … NHƯNG KHÔNG PHẢI TỐT HƠN.

Chú ý ! Sống lâu hơn không có nghĩa là sống với tình trạng sức khoẻ tốt hơn.Trái lại : các phụ nữ mà tuổi thọ ở Pháp hiện nay là 83,8 tuổi (so với 76,8 tuổi đối với đàn ông) lại bị phụ thuộc (dépendante) hơn đàn ông mặc dầu ở cùng lứa tuổi. Các lão bà bị nhiều bệnh làm tàn phế hơn, như bệnh loãng xương hoặc bệnh Alzheimer và trải qua nhiều thời gian ở bệnh viện hơn là các lão ông . Như vậy các bà có thể phải sống nhiều năm tháng hơn với các chức năng bị hư hỏng , đặc biệt là vận động và thị giác. Ngày nay trong số 18% người già trên 75 tuổi được xem là bệnh tật hay tàn phế thì  2 /3 là các phụ nữ. 

(SCIENCES ET VIE 8/2007)

B.S NGUYỄN VĂN THỊNH
(25/8/2007)

Thông Tin Y Học

  • Thông tin Y học - Số 39 - Đại Linh
  • Thông tin Y học - Số 36 - Đại Linh
  • Cấp cứu Nội khoa số 5 -  BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 4 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 3 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 2 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Giới thiệu Dược phẩm mới số 1 -  Võ Đăng Đài
  •  Thông tin Y học - Số 35 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 34 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 33 - Đại Linh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 1 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Thông tin Y học - Số 32 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 31 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 30 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 29 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 28 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 27 -Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 26 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 25 -  - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 24 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 23 -  - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 22 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 21 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 20 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 19 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 18  - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 17 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 16 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 15 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 14 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 13 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 12 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 11 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 10 -  Đại Linh
  •  La Circulation ExtraCorporelle - Bùi Phương
  • Bài vở , hình ảnh, dữ liệu đăng trên trang nhà của Y Khoa Huế Hải Ngoại (YKHHN) hoàn toàn có tính thông tin hay giải trí. Nội dung của tất cả bài vở, hình ảnh, và dữ liệu này do tác giả cung cấp, do đó trách nhiệm, không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chủ trương của trang nhà YKHHN.
    Vì tác quyền của mọi bài vở, hình ảnh, dữ liệu… thuộc về tác giả, mọi trích dịch, trích đăng, sao chép… cần được sự đồng ý của tác giả. Tuy luôn nỗ lực để độc giả được an toàn khi ghé thăm trang nhà YKHHN, chúng tôi không thể bảo đảm là trang nhà này hoàn toàn tránh được các đe dọa nhiễm khuẫn hay các adwares hay malwares… Vì chúng tôi không thể chịu trách nhiệm cho những tổn hại nếu có, xin quý độc giả cẩn trọng làm mọi điều có thể, ví dụ scanning, trước khi muốn sao chép, hoặc/và tải các bài vở từ trang nhà YKHHN xuống máy của quý vị.