Thông Tin Y Học và Giới Thiệu Dược Phẩm mới

Thời sự Y Học - Số 27

 

1/ GIÀ,TRẦM CẢM,RỒI ĐÁI ĐƯỜNG

          Các công trình nghiên cứu đã chứng tỏ rằng sự việc có những triệu chứng trầm cảm quan trọng được liên kết với một sự gia tăng nguy cơ mắc bệnh đái đường loại 2.Carnethon (Chicago) và các cộng sự viên đã muốn biết xem rằng chỉ cần một ghi nhận có các triệu chứng trầm cảm nặng,một gia tăng các triệu chứng trầm cảm hoặc các triệu chứng trầm cảm nặng và kéo dài có được liên kết với sự phát sinh đái đường loại 2 hay không.Các nhà nghiên cứu này của Hoa Kỳ đã phân tích các dữ kiện từ 4500 người tham dự công trình Cardiovascular Health Study, tuổi bằng hoặc hơn 65.Mỗi năm,từ năm 1989 đến 1999,các người này phải trả lời một trắc nghiệm về bệnh trầm cảm.Các kết quả cho thấy rằng những người già có những triệu chứng trầm cảm cấp tính hơn (dầu là tạm thời hay dai dẳng) có nguy cơ bị bệnh đái đường loại 2 hơn những người khác (nguy cơ 50-60% cao hơn đối với những người có triệu chứng trầm cảm).Các tác giả đưa ra nhận xét rằng sự liên kết này không thể hoàn toàn được giải thích bởi các yếu tố nguy cơ của bệnh đái đường.

(LE JOURNAL DU MEDECIN 11/5/2007)

2/ ÍT TIẾP XÚC VỚI MẶT TRỜI TỐT HƠN LÀ DÙNG KEM BẢO VỆ.

         Sự phơi nắng là nguyên nhân quan trọng nhất của quang sinh ung thư(photocarcinogenèse),sự lão hóa sớm của da và sự nhạy cảm với ánh sáng (photosensibilité).Do đó tránh ánh nắng mặt trời là mối quan tâm thường xuyên mỗi khi hè đến.Sử dụng kem chống nắng(crème solaire) có độ bảo vệ cao là một bộ phận của chiến lược cổ điển chống ung thư da.Theo Lautenschlager và các cộng sự viên, việc mặc quần áo thích ứng, đội mũ và giới hạn sự phơi nắng đã tỏ ra có hiệu quả hơn nhiều.Trong lối sống hiện nay của chúng ta với chủ trương sống ngoài trời và tìm ánh nắng mặt trời trong những tháng mùa hè,thì các biện pháp « đơn giản « này tưởng như không được ưa chuộng cho lắm, điều này có thể giải thích tại sao kem chống nắng được sử dụng ồ ạt.Nhưng nếu kem chống nắng là biện pháp được chấp nhận để bảo vệ chống nắng thì không nên tỏ ra dè xẻn..Để được hiệu quả cần phải bôi lên da những lớp kem dày.Việc bôi trải kem đều đặn lên da cũng như tính đặc hiệu của phổ hấp thụ cũng đóng một vài trò quan trọng.Mặc đầu thế,việc sử dụng quá đáng kem chống nắng để kéo dài cực độ việc phơi nắng là điều hoàn toàn không nên làm.

(LE JOURNAL DU MEDECIN 11/5/2007)

3/ GHÉP CƠ QUAN Ở VƯƠNG QUỐC ANH.

Vào tháng 3 năm 2007,có 7.234 người nằm trên danh sách chờ đợi để được ghép cơ quan.Nhưng trong khi bảng danh sách chờ đợi trước đây đã không bao giờ đạt được những con số cao như vậy, thì giải phẫu ghép cơ quan trong khi đó đã đạt mức kỷ lục.Giữa tháng 3 năm 2006 và tháng 3 năm 2007,có 3.074 cuộc giải phẫu ghép cơ quan đã được thực hiện ở Anh, hoặc tăng thêm 10% so với năm trước.Theo giới hữu trách về ghép cơ quan, hiện nay rất cần đến người cho cơ quan nếu muốn thỏa mãn số bệnh nhân chờ được ghép ngày càng gia tăng. Chinh phủ yêu cầu các công dân Anh sẵn sàng cống hiến một bộ phận của cơ thể mình sau khi chết và thông báo điều đó với thân nhân của họ cũng như đăng ký ở văn phòng có liên quan của NHS.

(LE JOURNAL DU MEDECIN 11/5/2007)

4/ CHỨNG TINH HOÀN ẨN VÀ UNG THƯ TINH HOÀN

       Chứng tinh hoàn ẩn (cryptorchidie), yếu tố nguy cơ của ung thư tinh hoàn, thường được điều trị bằng ngoại khoa.Nhưng tuổi vào lúc phẫu thuật có ảnh hưởng đến nguy cơ bị ung thư tinh hoàn hay không? Petterson và các cộng sự viên đã nghiên cứu mối liên hệ giữa tuổi vào lúc phẫu thuật và nguy cơ mắc phải ung thư tinh hoàn.Các nhà nghiên cứu ở Thụy Điển đã thống kê,từ năm 1964 đến 1969, có 16.983 người bị chứng tinh hoàn ẩn được giải phẫu cố định tinh hoàn (orchidopexie).Các kết quả ghi nhận 56 trường hợp ung thư tinh hoàn trong thời kỳ theo dõi.Nguy cơ đối với những người được phẫu thuật cố định tinh hoàn trước 13 tuổi là 2,23 so với dân chúng tổng quát.Đối với những bệnh nhân được điều trị ở tuổi 13 hoặc lớn hơn thì nguy cơ là 5,40.Theo các tác giả,điều trị tinh hoàn ẩn trước tuổi dậy thì làm giảm nguy cơ mắc phải ung thư tinh hoàn.

(LE JOURNAL DU MEDECIN 15/5/2007)

5/ RESONANCE MAGNETIQUE NUCLEAIRE VÀ UNG THƯ VÚ.

         Hơn 10% phụ nữ bị ung thư vú một bên(vú bên đối diện có vẻ bình thường lúc làm mammographie) về sau này sẽ phát triển ung thư ở vú đối diện bình thường này.Thế mà theo nhiếu nhà lâm sàng, ổ ung thư thứ hai này đôi khi có thể được phát hiện bằng RMN ngay vào lúc chẩn đoán ban đầu.Điều này cho phép không phải điều trị hai khối u ung thư cách xa nhau vào những thời điểm khác nhau. Một công trình nghiên cứu quốc tế được thực hiện ở nhiều trung tâm (ở Hoa Kỳ,Canada và Đức) bao gồm 969 phụ nữ vừa được phát hiện ung thư vú một bên bằng mammographie.Những bệnh nhân này hai tháng sau đó đều đã được khám RMN bổ túc và trong trường hợp có hình ảnh khả nghi ở vú bên đối diện,người ta đã thực hiện sinh thiết trong 12 tháng sau đó để kiểm tra mô học.Kết quả : 33 phụ nữ (khoảng 3% dân số được khảo sát) đã có ung thư ở bên vú đối diện.Những ung thư này đã không được phát hiện trong mammographie được thực hiện lúc khởi đầu.Thế có nghĩa là mammographie không đáng tin cậy chăng? Chắc chắn là không phải thế. Mammographie vẫn là khám nghiệm chuẩn bởi vì ngoài những ưu thế khác ra, chụp quang tuyến vú phát hiện các microcalcifications, một trong những dấu hiệu sớm của ung thư vú mà RMN không thấy được.Ngược lại,RMN có thể phát hiện những khối u có thể tích rất nhỏ mà mammographie không phải luôn luôn có thể phát hiện được lúc ban đầu mà chỉ sau này mà thôi.Thông điệp của các nhà nghiên cứu là không nên xét nghiệm phát hiện bằng RMN một cách đại trà mà chỉ đề nghị xét nghiệm này nơi các phụ nữ có nguy cơ mà thôi.

(LA LIBRE MATCH (9/5-15/5/2007)

6/ ĐIỀU TRỊ CHỨNG TRẦM CẢM CỦA NHỮNG BỆNH NHÂN ĐÁI ĐƯỜNG.

Bệnh đái đường thường kèm theo những rồi loạn trầm cảm.Khi những rối loạn này nghiêm trọng thì sự điều trị chúng cũng quan trọng như sự điều trị bệnh đái đường.Theo một công trình nghiên cứu trong đó tham dự 100 người bệnh đái đường ở tuổi trưởng thành và bị chứng trầm cảm mức độ quan trọng, việc giảm thể trọng trong điều trị bệnh đái đường đóng một vai trò quyết định để nồng độ hémoglobine glycosylée A1c giảm trong máu.Nhưng sau 6 tháng,chính sự cải thiện chứng trầm cảm nhờ điều trị bằng thuốc chống trầm cảm tuồng như là đảm bảo tốt để ổn định nồng độ đường huyết.Một công trình nghiên cứu thứ hai trên 1000 người bi bệnh động mạch vành trong số đó có 1/3 bệnh nhân bị bệnh đái đường.Sau hơn 4 năm theo dõi,nguy cơ tử vong trong số những người bị bệnh đái đường tăng 25% khi các bệnh nhân động mach vành có kèm theo những triệu chứng lâm sàng của chứng trầm cảm mức độ vừa hoặc nặng.

(SCIENCES ET AVENIR 5/2007)

7/ ĐIỀU TRỊ BAN ĐÊM CHỐNG BỆNH XƠ CỨNG RẢI RÁC.

Điều trị vào ban đêm thay vì ban ngày.Được gọi tên là Chronothérapie (điều trị theo nhịp thời gian),cách cho thuốc theo đồng hồ sinh học có hiệu quả đối với những bệnh nhân bị xơ cứng rải rác.Đó là kết quả của một công trình nghiên cứu được thực hiện bởi những nhà nghiên cứu Israel thuộc Technion Center de Haifa và được công bố trong Journal of Neurology,Neurosurgry and Psychiatry. BS Ariel Miller,một trong những tác giả của công trình nghiên cứu giải thích : « Chúng ta biết rằng ở người,nồng độ của cortisone cao hơn vào buổi sáng nhưng thấp hơn vào buổi chiều ».Thế mà điều trị bệnh xơ cứng rải rác chủ yếu cần đến corticoides. Vì vậy cho thuốc có tính đến rythme circadien có vẻ là điều đáng được quan tâm.Các corticoides đã được tiêm truyền tĩnh mạch trong vòng 4 giờ,hoặc từ 10 giờ đến 16 giờ,hoặc từ 22 giờ đến 2 giờ.Kết quả : đợt điều trị vào ban đêm đã tỏ ra không những có hiệu quả hơn mà cón được dung nạp tốt hơn bởi các bệnh nhân.

(SCIENCES ET AVENIR 7/2007)

8/ TÁC DỤNG BẢO VỆ CỦA ASPIRINE.

Dùng aspirine với liều lượng nhỏ cải thiện rất rõ rệt khả năng sống sót sau một nhồi máu cơ tim và một tai biến mạch máu não.Thật vậy,được cho trong giai đoạn cấp tính của một nhồi máu cơ tim, thì cứ mỗi 1000 bệnh nhân được điều trị trong tháng đầu tiên của trị liệu, aspirine sẽ ngăn ngừa 38 trường hợp tai biến mạch máu và 23 trường hợp tử vong có nguồn gốc huyết quản.Đối với các tai biến mạch máu não,thì cứ mỗi 1000 bệnh nhân được điều trị, aspirine được cho ở giai đoạn cấp tính sẽ ngăn ngừa 9 tai biến mạch máu nghiêm trọng.Do đó ,aspirine phải được cho nơi mỗi bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu não là điều rất hợp lý.
Nhưng chỉ định của aspirine không chỉ có thế mà thôi.bởi vì aspirine cũng có tác dụng phòng ngừa thứ cấp các huyết khối (thrombose). Được sử dụng cho 1000 bệnh nhân có tiền sử nhồi máu cơ tim hoặc tai biến mạch máu não, aspirine trung bình ngăn ngừa từ 15 đến 18 trường hợp huyết khối tái phát mỗi năm. Đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao như cơn đau thắt ngực,tiền sử angioplastie, thấm tách máu (hémodialyse), đái đường, hẹp động mạch cổ (sténose carotidienne), aspirine cũng có lợi ích tương tự ( ngăn ngừa hơn 10 tai biến cho mỗi 1000 bệnh nhân được điều trị trong 1 năm).
Sau cùng,aspirine cũng có thể được sử dụng trước khi huyết khối động mạch xảy ra, trên những bệnh nhân không có tiền sử huyết khối (phòng ngừa nguyên phát).
6 công trình nghiên cứu rộng rãi đã đánh giá các lợi ích và các nguy cơ khi điều trị phòng ngừa bằng aspirine.Tất cả các nghiên cứu này đã chứng tỏ rõ ràng rằng những lợi ích của việc dùng aspirine và sự giảm nguy cơ bị huyết khối càng quan trọng khi bệnh nhân càng kiêm nhiệm nhiều yếu tố nguy cơ.Tuy nhiên ,quyết định điều trị nguyên phát bằng aspirine phải dựa trên sự tính toán hơn thua giữa các lợi ích của điều trị và các biến chứng có thể xảy ra do phép điều trị này.

(LE JOURNAL DU MEDECIN 4/5/2007)

9/ CHÚNG TA CÓ THỂ NGƯNG CHO ASPIRINE?

Những trường hợp cần phải ngưng sử dụng aspirine không phải là hiếm. Nhất là những động tác can thiệp ngoại khoa hay những thủ thuật gây nhiều xuất huyết.Tuy nhiên ngừng cho aspirine không phải là không có những nguy cơ.
Ngoại trừ một vài loại phẫu thuật  ( tiền liệt tuyến, hệ thần kinh),hầu hết các can thiệp ngoại khoa và các thủ thuật có thể được thực hiện với một liều lượng nhỏ aspirine (100 mg mỗi ngày).
Nếu phải ngừng cho aspirine trước phẫu thuật, cần phải xét đến nhip độ hồi phục của các tiểu cầu (10% mỗi ngày).Do đó nên ngừng cho aspirine 5 ngày trước khi can thiệp ngoại khoa và sau đó sử dụng trở lại càng nhanh càng tốt.
Trái với aspirine,clopidogrel thường được ngừng cho trước mọi phẫu thuật ngoại trừ angioplastie percutanée.

(LE JOURNAL DU MEDECIN 4/5/2007)

10/ CÁC LỢI ÍCH CỦA CHỌC HÚT TẾ BÀO.

Trong ung thư phổi, chọc hút tế bào (cytoponction) dưới sự hướng dẫn của siêu âm qua thực quản (échographie transoesophagienne) nhằm lấy một « lõi carotte « nhỏ mô hạch (tissu ganglionnaire) dưới sự kiểm soát của siêu âm từ một ống thăm dò (sonde) được đưa vào trong thực quản .Thủ thuật này cho phép xác định mức độ lan rộng của khối u. Bổ sung cho scanner,thủ thuật vi sinh thiết có siêu âm hướng dẫn này là một phương tiện đáng tin cậy để phát hiện các di căn đồng thời tránh khỏi phải mở lồng ngực bằng giải phẫu ngoại khoa hoặc thoracotomie.

(SCIENCE ET AVENIR 5/2007)

                      BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(20/5/2007)

 
 

Thông Tin Y Học

  • Thông tin Y học - Số 39 - Đại Linh
  • Thông tin Y học - Số 36 - Đại Linh
  • Cấp cứu Nội khoa số 5 -  BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 4 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 3 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 2 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Giới thiệu Dược phẩm mới số 1 -  Võ Đăng Đài
  •  Thông tin Y học - Số 35 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 34 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 33 - Đại Linh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 1 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Thông tin Y học - Số 32 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 31 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 30 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 29 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 28 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 27 -Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 26 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 25 -  - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 24 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 23 -  - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 22 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 21 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 20 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 19 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 18  - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 17 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 16 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 15 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 14 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 13 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 12 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 11 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 10 -  Đại Linh
  •  La Circulation ExtraCorporelle - Bùi Phương
  • Bài vở , hình ảnh, dữ liệu đăng trên trang nhà của Y Khoa Huế Hải Ngoại (YKHHN) hoàn toàn có tính thông tin hay giải trí. Nội dung của tất cả bài vở, hình ảnh, và dữ liệu này do tác giả cung cấp, do đó trách nhiệm, không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chủ trương của trang nhà YKHHN.
    Vì tác quyền của mọi bài vở, hình ảnh, dữ liệu… thuộc về tác giả, mọi trích dịch, trích đăng, sao chép… cần được sự đồng ý của tác giả. Tuy luôn nỗ lực để độc giả được an toàn khi ghé thăm trang nhà YKHHN, chúng tôi không thể bảo đảm là trang nhà này hoàn toàn tránh được các đe dọa nhiễm khuẫn hay các adwares hay malwares… Vì chúng tôi không thể chịu trách nhiệm cho những tổn hại nếu có, xin quý độc giả cẩn trọng làm mọi điều có thể, ví dụ scanning, trước khi muốn sao chép, hoặc/và tải các bài vở từ trang nhà YKHHN xuống máy của quý vị.