Thông Tin Y Học và Giới Thiệu Dược Phẩm mới

Thời sự Y Học - Số 11

 

 

1/ DEGENERESCENCE MACULAIRE:DES ANTI- CORPS AMELIORENT LA VUE

Một phương pháp điều trị bằng kháng thể cho phép cải thiện rõ rệt thị lực của những người bị gần như mù loà do thoái hoá điểm vàng vì tuổi tác (dégénéres-cence maculaire liée à l'age=DMLA).
Là nguyên nhân đứng đầu gây mù loà ở những người trên 55 tuổi,thể nặng nhất của bệnh DMLA có lẽ từ nay không còn là một bệnh không tránh khỏi của mắt,nếu tin vào những kết quả của một dược phẩm mới duoc sản xuất,Lucentis.
Một nghiên cứu được tiến hành trên 716 người bị bệnh DMLA  néovasuculaire chứng tỏ rằng sau một năm diều trị, thị lực của 40% bệnh nhận được cái thiện.Trong khi đó với những bệnh nhân được điều trị theo phương pháp cổ điển,tỷ lệ này chỉ có 6%.
Ở Pháp,khoảng 300.000 người bị gần như mù loà,nam trong giai đoạn cuối của DMLA.Trong hầu hết các trường hợp,sự mù loà là do một dạng DMLA tiến triển nhanh,được gọi là néovasculaire,mà đặc điểm là sự xuất hiện các huyết quản dưới vùng trung tâm nhạy cảm nhất của võng mạc,macula(điểm vàng). Ngoài sự tăng sinh vô tổ chức,các huyết quản it kín này tạo nên những xuất huyết nhỏ làm thoái hóa chức năng của võng mạc.
Jean-François Girmens,chuyên khoa Mắt Hopital des Quinze-Vingts ở Paris,chỉ rõ:"Điều trị chinh là tiêm vào máu một chất phản ứng với ánh sáng       ( produit photoréactif).Chất này tich tụ trong những huyết quản bất binh thường và làm nghẽn chúng dưới tác dụng  cua laser .Những phép điều trị quang động (thérapie photodynamique)này chi làm chậm quá trình bệnh lý.Ngoài ra phép điều trị này chỉ có thể áp dụng cho 30-40% bệnh nhân.
Được sản xuất bởi công ty sinh kỹ thuật Hoa Kỳ Genetech,Lucentis có một cách tác dụng khác.Đó là một mảnh kháng thể.Tiêm vào trong nhãn cầu,mãnh kháng thể này sẽ liên kết với một phân tử là nguyên nhân của sự tăng sinh huyết quản,được goi là VEGF(facteur de croissance endothélial vasculaire) và vô hiệu hoá tại chõ tác dụng của yếu tố này.Khi đó các tân huyết quản sẽ tiêu đi.Các tân huyết quản còn lại trở nên kín đị.Như thế võng mạc có thể đuoc tái lập nếu  benh DMLA không o giai doan quá tiến triển.
J-F-Girmens xác nhận:"Các kết quả này rất đáng phấn khởi.Đây là lần đầu tiện thi lực của những người được điều trị được cải thiện và không còn chỉ ổn định mà thôi." 
Mặc dầu đã được thương mãi hóa ở Hoa Kỳ và Thụy Sĩ,tuy vậy Lucentis vẫn gây nên những dè dặt.Thật vậy tiêm chich hàng tháng vào nhãn cầu có thể dẫn tới nguy cơ bị nhiễm trùng.. Ngoài ra mỗi liều lượng giá khoảng 1600 Euro.
Mặc dầu còn cần thời gian để đánh giá đầy đủ,chúng ta có thể hy vọng rằng sự kết hợp điều trị bằng laser và kháng thể sẽ cải thiện điều trị,it nhất là trên những bệnh nhân được phát hiện đúng lúc

(LA RECHERCHE 12/2006)

2/ LA PERIDURALE RENDRAIT L'ALLAITEMENT PLUS DIFFICILE.

Các phụ nữ phải nhờ đến péridurale lúc sinh đẻ sẽ có nhiều vấn đề khi cho con bú hơn những phụ nữ sinh đẻ tự nhiên.Một công trịnh nghiên cứu của Anh đã chứng tỏ như vậy.Trong 10 năm qua,péridurale ngày càng quyến rũ các phụ nữ,nhưng các nhà nghiên cứu của Đại học Swansea ở xứ Galles,đã khám phá rằng kỷ thuật péridurale không phải là không có điều bất lợi.Thật vậy,kỹ thuat này có những hậu quả tai hại lên sự cho  con bú bởi vi vài chất của péridurale đi vào máu của trẻ sơ sinh và tác động trong nhiều tuần sau khi sinh.Khi đó trẻ sẽ ít thich bú sữa mẹ hơn.

(LES DERNIERES HEURES 11/12/2006)
                               
3/ ETATS-UNIS:GREFFE D'UTERUS ?

Một nhóm phẫu thuật ở Nữu ước muốn thực hiện trong năm này giải phẫu ghép tử cung đầu tiên.Phẫu thuật sẽ được đề nghị cho các phụ nữ muốn có con nhưng bị trở ngại vì ung thư hay bất thường tử cung.
Trước hết nhom phẫu thuật dự kiến một giải phẫu ghép tạm thời.Một phôi thai thu được nhờ thụ tình nhân tạo sẽ đuoc cấy(implanté) vào tử cung.Tử cung này sẽ được lấy đi sau khi sinh bằng césarienne để khong phải điều trị kéo dài chống thải bỏ(traitement antirejet)

 (LE GENERALISTE 25/1/2007)


4/ HORMONE DE CROISSANCE : ATTENTION DANGER

Hormone de croissance được sử dụng rất thịnh hành không những ở Hoa Ky mà cả ở Châu Âu.Đó là hormone tăng trưởng được tiêu thụ bởi những người bị ám ảnh bởi ước muốn"trẻ mãi không già",nhung không phải là không có nguy cơ,  theo một nghiên cứu được công bố ngày 16 tháng giêng trong Les Annales de Médecine Interne."Kich thich tố này, có thể mua không cần toa BS,có thể có những tác ung phu tai hai như sưng khớp kèm theo đau đớn,viêm gan(tendinite) cổ tay cũng như khuynh huớng gia tặng những trường hợp đái đường và tiền đái đường." BS Hau Liu,thuốc trường Y Đaị Học Stanford Californie,đã nhấn mạch như vậy.Nhà nghiên cứu này và nhóm cộng tác của ông dã phân tích 31 công trình nghiên cứ y học được tiến hành cho đến ngày hôm nay trên thế giới để đánh giá những hiệu quả của thuốc hỗ trợ "chồng lão hóa" này.       
"Kich thich tố tăng trưởng có một tác dụng khiêm tốn lên sự gia tặng khối lượng cơ và sự biến mất của  mỡ.Nhưng dùng kích thich tố này da không thay làm dối gì cả về các dữ kiện lâm sàng quan trọng như mật độ xương(densité osseuse), nồng độ cholestérol và lipides trong máu hoặc khả năng hô hấp".BS Hau Liu đã nhấn mạnh như thế,sau khi đã phân tích những kết quả được quan sát trên hơn 500 người lớn tuổi,khỏe mạnh nhưng hơi tặng thể trọng và đã sử dụng điều trị bằng hormone tăng trưởng trong khoảng thời gian trung bình 6 tháng."Tuyệt đối không có một dữ kiện nào khả dĩ làm nghĩ rằng cho kích thích tố tăng trưởng trên một người khỏe mạnh có thể làm ông ta sống lâu kon".BS Hau Liu đã kết luận như thế. 
Năm 2004,ở Hoa Kỳ có từ 20.000 đến 30.000 người dã sử dụng hormone này mà các giá trị được ca ngợi trên Net,trong mục đích tránh giảm khối cơ,gia tăng sức bền bĩ và chống lại lượng mỡ nặng nề.Sự thinh hành này xảy ra mặc dầu phí tổn điều trị cao(hơn 1000 dollars mỗi tháng) và tính bất hợp pháp của sự phân phối thuốc.Sự thịnh hành đã bắt đầu sau khi một bài báo được công bố trong New England Journal of Medicine trinh bày những kết quả của một nghiên cứu được thực hiện trên 12 người trên 60 tuổi,được điều tri 3 lần mỗi tuần,bằng tiêm chich hormone để croissance trong vòng 6 tháng.Kết quả điều trị cho thấy rằng có một sự gia tăng đáng kể khối lượng cơ gầy(masse maigre) và mật dộ xương, trái với nhóm kiểm chứng 9 người duoc điều trị với placebo.Nhưng các tác giả thời đó rất thận trọng,tránh kết luận là đã khám phá một phương pháp điều trị chống già.Nhung sự mong đợi của công chúng và áp lực thương mãi đã quét sach các chống đối
Năm 2003 một bài bình luận của báo New England Journal of Medicine đã lập lại những lời cảnh cáo này.Nghiên cứu mới đã chỉ rõ nhiều tác dụng phụ nghiêm trọng của sử dụng hormone de croissance.
Cần nhắc lại rằng,hormone de croissance được tiết tự nhiên bởi não thúy,một tuyến nhỏ nằm ở đáy não.Chủ yếu được sản xuất trong thơi kỳ thơ ấu và thiếu niên để kích thích sự tăng trưởng,sau đó nồng độ của kích thich tố đat đến cuc dai vào khoảng năm 30 tuổi,trước khi giảm nhanh sau tuổi 60.Hiện nay khich thich tố này chỉ được sử dụng trên trẻ em và thiếu niên để chống lại vài trường hợp chậm tăng trưởng(retard de croissance) và vài benh ly do thiếu hụt  và điều trị được theo dõi chặt chẽ.

(LE FIGARO 22/1/2007)

5/ LE PARKINSON AUGMENTE LE RISQUE DE MELANOME.

Các kết quả của một công trình nghiên cứu rộng rãi được trình bày tại hội nghị của American Neurological Association chứng tỏ rằng các bệnh nhân bị bệnh Parkinson có nguy cơ mắc bệnh mélanome từ 2 đến 10 lần cao hơn.Nguoi ta hoàn toàn không biết những lý do của mối liên hệ này.Tương quan giữa levodopa và mélanome đã không được xác định.Dẫu sao,các bệnh nhân Parkinson cần phải đặc biệt cảnh giác nguy cơ tiếp xúc quá mức với ánh sáng mặt trời và phải được xem như thuộc nhóm bệnh nhân có nguy cơ can duoc điều tra phát hiện.

(MEDISPHERE 25/1/2007)

6/ SURGICAL RISKS GREATER FOR OBESE CHILDREN.

Các nguy cơ liên kết với vấn đề béo phì đang gia tăng trong giới trẻ có thể  cũng xảy ra ở phòng mổ.
Các nhà nghiên cứu của University of Michigan Health System đã nhận thấy rằng gần 1/3 trẻ em cần phai giải phẫu ở đây,trong vòng thời gian 4 năm,đều bi gia tang thể trọng (overweight).Trong số những trẻ này,hơn 1/2 có thể xem là béo phì(obese).Nghiên cứu này vừa được công bố trên Journal of the National Medical Association số tháng này.
Các nhà nghiên cứu được chị đạo bởi BS Olubukola Nafiu,đã nói rằng trong giới phẫu thuật gia và các nhà gây mê,từ lâu mọi người đều công nhân rằng các bệnh nhân béo phì tuổi trường thành là những thách thức"to lớn".Với sự gia tăng gấp 3 lần các vấn đề thể trọng tren cac trẻ em và thiếu niên Hoa Kỳ trong vòng 3 thập niên qua,cac BS  giải phẫu trên các bệnh nhân trẻ tuổi đang gặp phải những vấn để tương tự nhu tren nguoi truong thành.Các nhà nghiên cuu da noi nhu vay
Ở những bệnh nhân ở tuổi trưởng thành,giải phẫu thường bị biến chứng bởi những bệnh lý do béo phì gây nên,như đái đường và cao huyết áp."Khốn khổ thay,nhiều trong số bệnh lý xảy ra đồng thời này đang ngày càng thinh hành ở trẻ em béo phì."Công trình nghiên cứu đã nói như vậy.
Sự thăng dự thế trọng có thể gây nên nhiều khó khăn,như duy trì đường hô hấp khai thông trong lúc đánh mê.Cũng có bằng cớ cho thấy rằng ở những người quá tái thế trọng,vết thương do giải phẫu thường dễ bị nhiễm trùng hơn.
Các nhà nghiên cứu đã xem xét các cuộc giải phẫu được thực hiện trên hơn 6000 trẻ em tại University of Michigan Hospital từ năm 2000 đến 2004 Các vấn để do thể trọng gay nen được nhận thấy ở mọi lứa tuổi,nhưng đặc biệt là tren cac trẻ em từ 8 đến 12 tuổi.

(HERALD INTERNATIOAL TRIBUNE 25/1/2007)

7/ TABAC:UN RISQUE MAJEUR POUR L'ENFANT.

Một công trình nghiên cứu của Úc thuộc Đại Học Queensland ở Brisbane,được khởi đầu năm 1981,chứng tỏ rằng trẻ có mẹ nghiện thuốc lá trong thời kỳ mang thai,sẽ có nguy cơ trở thành nghiện hút thuốc gấp 3 lần so với những trẻ có mẹ không hút thuốc.
Công trình nghiên cứu bao gồm hơn 7.200 cap bà mẹ-trẻ em,trong đó 7200 cặp đã được theo dõi cho đến khi đứa trẻ được 21 tuổi.Phân tích đã xet đến tất cả yếu tố nguy cơ môi trường.
Sự tiếp xúc của bào thai trong tử cung với nicotine được xem như là một yếu tố nguy cơ quan trọng và hoàn toàn độc lập đối với những yếu tố khác.

( LA LIBRE MATCH 11/1-17/1/2007)

8/ COLOSCOPIE:LA QUALITE VARIERAIT SELON LES PRATICIENS.

Hieu qua cua sự phát hiện ung thư đại trực tràng bằng phuong pháp nội soi có thể thay đổi tùy theo người thực hiện.Theo một nghiên cứu của Mỹ được xuất bản mới đây trong New England Journal of Medicine,yếu tố quan trong nhất không phải là sự sửa soạn bệnh nhân trước thủ thuật hoặc kinh nghiệm của chuyên viên nội soi,mà chủ yếu là thời gian mà người thực hiện dành để nhìn các thành ruột: các BS nội sôi tôn trọng thời gian cần thiết của khám nghiệm,sẽ phát hiện các ung thư đại tràng tốt hơn và thường xuyên hơn.
Do đó,các thủ thuật soi đại tràng có hiệu quả nhất sê được thực hiện bởi các BS nội soi có lòng kiên nhẫn và lương tâm.

( LA LIBRE MATCH 11/1-17/1/2007)

9/ UNE TROISIEME GREFFE PARTIELLE DE VISAGE SUR UN FRANCAIS.

Giáo sư Laurent Lantiéri(Bệnh Viện Henri-Mondor,Créteil) đã thực hiện trong đêm 21-22/1 phẫu thuật ghép mặt bán phần (greffe de visage partielle) lần thứ ba.Mãnh ghép được cấu tạo bởi các mô hỗn hợp.Bệnh nhận sau  giải phẫu khỏe mạnh,là một thanh niên 27 tuổi bị bệnh Recklinghausen(Elephant man).Sau phẫu thuật được thực hiện bởi nhóm của BS Devauchelle và của GS Jean-Michel Dubernand vào tháng 11/2005 trên một phụ nữ 38 tuổi,và phẫu thuật ở Trung Quốc trên một người đi săn bị gấu cắn,phẫu thuật này đặt Pháp lên hàng đầu cua những thực hiện trong lãnh vực mũi nhọn này.

( LE FIGARO 24/1/2007)

10/ LE BILINGUISME RETARDE LA SENILITE.

Các công trình được tiến hành ở Université York de Toronto chứng tỏ rằng nói hai thứ tiếng hơn là một, sẽ làm chậm lại quá trình lão hóa.Trong nghiên cứu này,các triệu chứng lão hóa trung bình xuất hiện ở tuổi 70 trên những người nói một thứ tiếng (unilingues),trái lại ở tuổi 75 trên người nói 2 thứ tiếng (bilingues).Sự khác nhau này vẫn không thay đổi khi xet đến trình độ giáo dục,giới tình và môi trường xã hội hoặc quê quán của những người được khảo sát.Các nhà nghiên cứu xác nhận rằng không có một phép điều trị bằng thuốc nào có duoc một hiệu quả ly kỳ như vậy.

( GENERALISTE 18/1/2007)

                                                        ĐẠI LINH

                                                        (27/1/2007)




 

Thông Tin Y Học

  • Thông tin Y học - Số 39 - Đại Linh
  • Thông tin Y học - Số 36 - Đại Linh
  • Cấp cứu Nội khoa số 5 -  BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 4 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 3 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 2 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Giới thiệu Dược phẩm mới số 1 -  Võ Đăng Đài
  •  Thông tin Y học - Số 35 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 34 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 33 - Đại Linh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 1 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Thông tin Y học - Số 32 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 31 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 30 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 29 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 28 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 27 -Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 26 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 25 -  - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 24 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 23 -  - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 22 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 21 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 20 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 19 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 18  - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 17 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 16 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 15 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 14 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 13 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 12 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 11 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 10 -  Đại Linh
  •  La Circulation ExtraCorporelle - Bùi Phương
  • Bài vở , hình ảnh, dữ liệu đăng trên trang nhà của Y Khoa Huế Hải Ngoại (YKHHN) hoàn toàn có tính thông tin hay giải trí. Nội dung của tất cả bài vở, hình ảnh, và dữ liệu này do tác giả cung cấp, do đó trách nhiệm, không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chủ trương của trang nhà YKHHN.
    Vì tác quyền của mọi bài vở, hình ảnh, dữ liệu… thuộc về tác giả, mọi trích dịch, trích đăng, sao chép… cần được sự đồng ý của tác giả. Tuy luôn nỗ lực để độc giả được an toàn khi ghé thăm trang nhà YKHHN, chúng tôi không thể bảo đảm là trang nhà này hoàn toàn tránh được các đe dọa nhiễm khuẫn hay các adwares hay malwares… Vì chúng tôi không thể chịu trách nhiệm cho những tổn hại nếu có, xin quý độc giả cẩn trọng làm mọi điều có thể, ví dụ scanning, trước khi muốn sao chép, hoặc/và tải các bài vở từ trang nhà YKHHN xuống máy của quý vị.