Thông Tin Y Học và Giới Thiệu Dược Phẩm mới

Thời sự Y Học - Số 17

 

1/THUỐC MỚI

Hai dược phẩm đầu tiên cần ghi nhớ là varénicline (Champix) và rimonabant (Acomplia).
        VARENICLINE được sử dụng trong điều trị cai thuốc lá.Hầu hết các trường hợp nghiên có liên quan đến một « circuit de récompense » nằm trong các cấu trúc ở sâu trong não bộ và các tế bào có những thụ thể(récepteur) đặc hiệu với nicotine.Kích thích các thụ thể này sẽ gây nên phóng thích dopamine là căn nguyên của sự « thỏa mãn »,cơ sở của chứng nghiện thuốc lá.Varénicline tác dụng như chất chủ vận(agoniste) một phần của các thụ thể này và như vậy làm giảm sự đòi hỏi nicotine.Varénicline tỏ ra ưu thế hơn bupropion.Varénicline không ngăn cản sự lên cân sau khi đã bỏ nghiện.
        RIMONABANT được sử dụng trong điều trị chứng béo phì.Dược phẩm này là một chất đối kháng với các thụ thể của cannabis(kích thích các thụ thể này sẽ đưa đến thèm ăn).Như vậy thuốc này sẽ làm giảm việc kiếm ăn. Kết quả điều trị khiêm tốn : giảm 4,5 kg trong vòng một năm.Ngừng thuoc ,thành quả đạt được sẽ nhanh chóng biến mất..
      ARIPIPRAZOLE (Abilify) là thuốc chống loạn tấm thần mới nhưng hiệu quả điều trị hạn chế.Thuốc tác dụng như một chất chủ vận một phần,cho phép hoạt tính cơ bản dopaminergique và giảm các tác dụng phụ của các thuốc chống loạn tâm thần.
       SERTINDOLE (Serdolect) là một thuốc an thần kinh không điển hình (neuroleptique atypique) một lần nữa xuất hiện trên thị trường : các chỉ định đã được xem xét lại và bi hạn chế hơn vì thuốc có thể dẫn tới sự kéo dài khoảng QT trên điện tầm đồ.
Nhiều thuốc mới chống bệnh Parkinson xuất hiện trên thị trường : RASAGILINE (Azilect) là một IMAOB với hiệu quả khiêm tốn.STALEVO (kết hợp levodopa với cabidopa và entacapone) là thuốc kết hợp nhưng tốn kém. DUODOPA là một levodopa có thể sử dụng trực tiếp qua ống thông(sonde) nơi các bệnh nhân mở thông hổng tràng (jéjunostomisé). TOLCAPTONE (Tasmar) làm giảm chuyến hoá của lévodopa nhưng cần tránh vì độc tính lên gan. ROTIGOTINE (Neupro) dùng qua da(transdermique) nhung không đem đến tiến bộ nào.
RIVASTIGMINE (Exelon) được đề nghị điều trị bệnh Parkinson liên kết với chứng sa sút trí tuệ(démence) nhưng không có bằng chứng thuyết phục.

(LA REVUE DE LA MEDECINE GENERALE 2/2007)

2/ MỘT BỆNH VỀ TÌNH DỤC CÓ THẼ CHE DẤU MỘT BỆNH KHÁC NGHIÊM TRỌNG HƠN.

         Theo các kết quả của một công trình nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu của nhiều nước, các rối loạn về tình dục đôi khi làm phát hiện các bệnh về tim, bệnh tiểu đường, bệnh trầm cảm, bệnh xơ cứng rải rác (sclérose en plaques) hoặc ngay cả bệnh Parkinson.Công trình nghiên cứu này được điều hành bởi Bác sĩ Rosemary Basson của Trung tâm Giới tính học thuộc Đại học Colombie-Britanique ở Vancouver, Canada. Công trình nghiên cứu nhấn mạnh rằng giới tính (sexe) phải là một bộ phận của Y Khoa mới chính dạng nhưng đã hầu như bị tách riêng ra với phần còn lại của Y Học.
Có không ít những rối loạn về tình dục đã được nhân diện như là những dấu hiệu cảnh cáo khả dĩ của các bệnh lý tiềm ẩn hoặc sắp xảy ra. Người nam giới bị rối loạn về tính cương (troubles de l’érection)  (vấn đề sinh dục thường xảy ra nhất bắt đầu từ một lứa tuổi nào đó) cũng thường có nguy cơ gia tăng bị bệnh tim. Ở các phụ nữ, sự thiếu khoái lạc tình dục che dấu một chứng trầm cảm tiềm ẩn trong gần 26% trường hợp.
Các bệnh nhân và ngay cả các thầy thuốc không tưởng tượng ra rằng rối loạn tình dục thường là một dấu hiệu của điều gì đó nghiêm trọng hơn. Bằng cách sử dụng những rối loạn tình dục như là dấu hiệu của những bệnh lý khác, các thầy thuốc có thể tranh thủ được thời gian quý báu trong việc điều trị. Nếu các thầy thuốc tìm thấy mối liên hệ giữa sự không có khoái lạc tình dục và những vấn để tâm thần như trầm cảm hay hợp chứng sau chấn thương (syndrome post-traumatique), thì bệnh nhân có thể được điều trị sớm hơn. 

(LANCET 2007) 

3 / UNG THƯ VÚ THOÁI TRÀO Ở HOA KỲ


Lần đầu tiên từ hơn 30 năm nay, số lượng ung thư vú ở Hoa hy đã giảm sút 7% từ năm 2002 dấn 2003,làm gián đoạn đường cong tiến triển không thay đổi của ung thư này.Và điều này xảy ra vào lúc rất nhiều phụ nữ mãn kinh ở Hoa Kỳ đã quyết định ngừng điều trị hormone thay thế( traitement hormonal substitutif).Làn sóng chống điều trị hormone thay thế xảy ra sau khi công bố vào tháng 7 năm 2002 một công trình nghiên cứu gây hãi hùng về các nguy cơ gia tăng bi ung thu vú do theo đuổi phép điều trị này.Các nhà khoa học của trung tâm chống bệnh ung thư Anderson ở Dallas thấy rõ mối liên hệ giữa việc điều trị bằng hormone thay thế với sự gia tăng số trường hợp ung thư vú.Việc ngưng điều trị hormone thay thế dẫn đến sự sụt giảm còn quan trọng hơn (12%) đối với các khối u có các thụ thể (récepteurs) dương tính đối với oestrogènes (nghĩa là những khối u mà sự tăng trưởng được gia tốc do sự hiện diện của các oestrogènes).Ở Pháp 3-6% các trường hợp ung thư vú được quy cho do điều trị hormone thay thế. 

(SCIENCE ET VIE 3/2007)

4/ BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG CÓ THỂ ẢNH HƯỞNG NGHIÊM TRỌNG ĐẾN ĐỜI SỐNG TÌNH DỤC.

Càng ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu chứng tỏ rằng bệnh tiểu đường là nguyên nhân trực tiếp của những rối loạn tình dục và những trầm cảm liên kết với bệnh này.
Ngay vào thế kỷ thứ 10, Avicenne đã xác lập một mối quan hệ giữa bệnh tiểu đường và những rối loạn tình dục. Ông nói đến một sự ‘suy giảm chức năng tình dục’ như là biến chứng của bệnh tiểu đường. Do nhiều điều cấm kỵ, sự nghiên cứu trong lãnh vực này chỉ đã được bắt đầu vào khoảng những năm 1950.
Nhưng những dữ kiện liên quan đến sự giảm hoạt động tình dục của đàn ông bị bệnh tiểu đường vẫn còn khá ít ỏi. Các rối loạn tính cương theo vài nghiên cứu ảnh hưởng đến 75% các bệnh nhân tiểu đường. Ở các bệnh nhân bị tiểu đường rối loạn tính cương xảy ra nhiều hơn bởi vì sự hoạt động của các cơ trơn, nội mô và sự phân bố thần kinh của vùng chậu bị thương tổn. Mặt khác, các rối loạn về tính cương có thể là dấu hiệu báo trước của sự thiếu máu cục bộ cơ tim. Bệnh lý này thuờng liên kết với hợp chứng chuyển hóa (syndrome métabolique), cao huyết áp, albumine niệu và bệnh lý võng mạc.
Ai cũng biết rằng các rối loạn tình dục khả dĩ ảnh hưởng đến các quan hệ, lòng tự tin và chất lượng cuộc sống. Trong trường hợp suy giảm dục tính và phóng tinh muộn, các liều lượng testostérone và prolactine được khuyên sử dụng.
Nhưng không chỉ có rối loạn tính cương. Những rối loạn phóng tinh thường xảy ra trong trường hợp người mắc  bệnh tiểu đường, ví dụ phóng tinh lộn ngược (éjaculation rétrograde) có thể đưa đến vấn đề về khả năng sinh sản.
Ở phụ nữ, liên hệ giữa bệnh tiểu đường và rối loạn hoạt động tình dục phức tạp hơn. Một phần là do các công trình nghiên cứu về vấn đề này ít thực hiện hơn. Tuy nhiên các con số cho thấy rằng ở những phụ nữ bị bệnh tiểu đường loại I những giao hợp đau đớn thường xảy ra hơn vì lẽ bộ máy sinh dục ít sung huyết hơn. Ngoài ra những bệnh nhân này dễ mắc phải bệnh do nấm candida mãn tính.
Không còn nghi ngờ gì nữa về mối liên hệ giữa loạn năng tình dục và chứng trầm cảm và tác dụng hổ tương giữa hai hiện tương này có thể dẫn đến một vòng luẩn quẩn
Lúc vấn chẩn lâm sàng bệnh nhân bị bệnh đái đường, không nên xếp các rối loạn tình dục vào hàng thứ yếu.Bệnh cạnh những vấn đề hoàn toàn thân thể (somatique),đái đường cũng có thể là dấu hiệu của chứng trầm cảm.Ngược lại những rối loạn tình dục và chứng trầm cảm phải khiến thầy thuốc tìm kiếm nguyên nhân trong bệnh đái đường.

( LE JOURNAL DU MEDECIN 6/3/2007)

 5/ CÁC TẾ BÀO MỠ LÀ NƠI TRÚ ẨN CỦA CÁC TRỰC KHUẨN LAO.

Làm sao giải thích sự tái xuất hiện của bệnh lao nơi những người đã được chữa lành bệnh, khi mà cơ thể không còn dấu vết trực khuẩn lao từ bao năm tháng? Đó là bởi vì trực khuan ẩn mình trong một nơi từ trước đến nay không được nghi ngờ đến : các tế bào mỡ.Olivier Neyrolles và các cộng sự viên của Viên Pasteur đã có thể chứng tỏ rằng chỗ ẩn dấu này bảo vệ trực khuẩn lao khỏi bị tác dụng của những kháng sinh kể cả loại mạnh nhất..Lúc nằm ngủ yên,trực khuẩn lao có thể nép minh trong các tế bào mỡ qua nhiều năm tháng và một ngày nào đó nhân cơ hội hệ miễn dịch bị suy yếu như trong trường hợp bị nhiễm trùng bởi HIV,trực khuẩn lao có thể tỉnh dậy và hoạt động trở lại.

(SCIENCE ET VIE 3/2007)

6/ HÚT THUỐC LÀM LIỆT DƯƠNG,UỐNG RƯỢU LÀM CƯỜNG DƯƠNG.

        Vào lúc mà ở nhiều nước việc cấm hút thuốc ở những nơi công cộng càng ngày càng được áp dụng thì việc nhắc lại rằng hút thuốc rất có hại cho chức năng cương là điều đáng lưu ý.Sau đây là kết quả của một công trình nghiên cứu Úc Đại Lợi,đất nước có tỷ lệ hút thuốc la đặc biệt cao.Bên cạnh việc xác nhận tác dụng có hai của thuốc lá lên sự cương ,còn có một điều ngạc nhiên rất thú vị,đó là uống một ly rượu nhỏ sẽ bảo vệ tinh cường dương.
Cần nhắc lại rằng công trình nghiên cứu Massachusetts male aging study được tiến hành trên nhóm đàn ông từ 40-70 tuổi sống ở Boston đã chứng tỏ một sự liên kết giữa nghiện thuốc lá và nguy cơ tăng gấp đôi bị rối loạn chức năng cương.
Một công trình khác, lần này được tiến hành ở Việt Nam trên 4.462 cựu chiến binh tuổi từ 31 đến 49 tuổi đã phát hiện rằng  những người hút thuốc bị chứng bất lực 1,5 lần nhiều hơn là những người không hút.
Úc Đại Lợi là một hiện trường rất tốt để nghiên cứu tác dụng có hại của thuốc lá vì tỷ lệ hút thuốc lá ở đây đặc biệt cao. Mức trung bình đàn ông hút thuốc là 19% (so với 16% trong những vùng tương đương khác). Ở các thanh niên (trong lứa 20-29 tuổi) tỷ lệ đạt đến 24%. Để thực hiện công trình nghiên cứu này, tất cả 19.307 người ở lứa tuổi trưởng thành  từ 16 đến 59 tuổi đã được yêu cầu trả lời một bảng câu hỏi được thực hiện qua đường điện thoại. Hơn ¼ những người trả lời (27,2%) là những người nghiện thuốc trong số đó 20,9% hút dưới 20 điếu mỗi ngày và 6,3% hơn 20 điếu mỗi ngày. Hầu như cứ mỗi mười người đàn ông thì có một người báo cáo bị rối loạn chức năng tính cương (9,1%). So sánh với những người không hút thuốc, nguy cơ bị rối loạn chức năng tính cương là 1,24 đối với những người hút dưới 20 điếu mỗi ngày và 1,39 đối với những người hút nhiều hơn. Công trình nghiên cứu cũng đưa ra những yếu tố khác liên kết một cách đáng kể và độc lập với rối loạn chức năng tính cương: tuổi tác cao hơn, trình độ học vấn thấp, dùng thuốc tác dụng lên tim.
Ngược lại, cũng trong cùng công trình nghiên cứu này, có vẻ như việc uống rượu vang có mức độ liên kết với giảm nguy cơ bị rối loạn cương. Thế là sau cùng bí mật về « french lovers » đã được phát hiện ! Cảm ơn các bạn Úc Dai Lợi.

(LE GENERALISTE 8/3/2007)

7/ CUỘC GIẢI PHẪU GHÉP MẶT THỨ BA.

         Sau các cuộc giải phẫu được thực hiện ở Amiens (tháng 11 năm 2005) và ở Trung quốc (tháng 4 năm 2006) một cuộc giải phẫu ghép mặt thứ ba đã được thực hiện ở Bệnh Viện Henri-Mondor de Créteil (Val-de-Marne) ngày 21 tháng 1 năm 2007. Một cuộc phẫu thuật ít được quảng cáo bằng phương tiện truyền thông hơn các cuộc giải phẫu trước bởi vì không có hình ảnh nào của bệnh nhận được công bố. Nhóm phẫu thuật của G.S Laurent Lantiéri đã giải phẫu cho một thanh niên 29 tuổi bị một bệnh di truyền có đặc điểm là nhiều khối u hiền tính làm biến dạng mặt. Bệnh u xơ thần kinh (neurofibromatose) này được gọi là Maladie de Rechlinghausen, căn bệnh được minh họa trong bộ phim Elephant man. Như GS Lantiéri đã tuyên bố vào năm 2004, ‘giải phẫu ghép mặt là một giải pháp cuối cùng, nhằm biến đổi một khuôn mặt dị hợm thành một khuôn mặt xấu xí’.
Cũng như đối với cuộc phẫu thuật tháng 11 năm 2005, phần dưới của mặt (tam giác, mũi miệng) được lấy từ những người cho bị chết. ‘’Nhưng ở đây diện tích hơi rộng hơn.Và nhất là động tác giải phẫu rất dễ gây xuất huyết bởi vì  ”phải lấy đi các mô bệnh trước khi ghép các mô lành” Nhà phẫu thuật phát biểu như thế. Vì phẫu thuật chỉ vừa mới được thực hiện nên dự hậu vẫn còn dè dặt. Và nhiều câu hỏi được đặt ra như sự dung nạp đối với điều trị giảm miễn dịch, sự tăng sinh trở lại các dây thần kinh để phục hồi chức năng vận động hoặc sự chấp nhận khuôn mặt mới của bệnh nhân, là những câu hỏi vào giờ phút này vẫn chưa được giải đáp. Tuy nhiên nhóm phẫu thuật dự kiến đưa 5 bệnh nhân khác vào danh sách giải phẫu. Các nhóm phẫu thuật mới cũng đang chuẩn bị để mổ trên những bệnh nhân bỏng ở Anh và Hoa Kỳ. 

(SCIENCES ET AVENIR 3/2007)

8/ HẠN CHẾ ĂN CÁ TRONG THỜI KỲ THAI NGHÉN

         Cơ quan quản lý dược phẩm và thực phẩm Hoa Kỳ khuyên đàn bà có thai tránh việc ăn một vài loại cá, bởi vì chúng có thể chứa nồng độ methylmercury không an toàn và giới hạn việc ăn các hải sản chỉ còn khoảng 12 ounces hay 2 lần mỗi tuần. Các nước khác đã tuân thủ những chỉ dẫn tương tự. Nhưng một báo cáo của Anh công bố trong Thế Lancet số tháng hai vừa qua, gợi ý rằng đây không phải là lời khuyên tốt nhất.
Trong một công trình nghiên cứu quan sát trên 8000 phụ nữ có thai và các con của họ, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng các trẻ em có mẹ ăn dưới 12 ounces hay 340 gr đồ ăn hải sản mỗi tuần có khả năng đến 45% rơi vào tỷ số thấp nhất 25% của hệ số thông minh (intelligence quotient).
Các nhà nghiên cứu đề nghị các bà mẹ điền các bảng câu hỏi về vấn đề dinh dưỡng của họ suốt trong thời kỳ thai nghén và sau đó báo cáo thường kỳ về tình trạng các trẻ cho đến năm 8 tuổi. Sau khi kiểm tra trên hơn 12 chế độ ăn uống và các biến số khác, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng nếu bà mẹ hấp thụ nhiều hơn acide mỡ omega-3 trong cá thì trẻ sẽ có phát triển vận động tinh tế tốt hơn, phát triển xã hội tốt hơn.
Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng không có bằng chứng nào cho thấy việc hấp thụ 12 ounces đồ ăn hải sản mỗi tuần đã có tác đừng có hại lên sự phát triển của trẻ em.
‘Nhiều nhà khoa học nghĩ rằng các nguy cơ của methylmercury có trong hải sản đã bị đánh giá quá mức trong cố gắng bảo vệ trẻ em. BS Joseph Hibbel, người trực tiếp điều hành công trình nghiên cứu và là nhà nghiên cứu tại Sở Y Tế Công Cộng Hoa Kỳ đã phát biểu như vậy.

(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 1/3/2007)

9/ TẬP THỂ DỤC CÓ THỂ GIÚP NGƯỜI HÚT THUỐC TRÁNH BỆNH PHỔI.

Những người hút thuốc không thể từ bỏ thói quen vẫn còn có thể tự giúp mình bằng tập thể dục.
Một công trình nghiên cứu mới đây nhận thấy rằng những người luyện tập thể dục ít có khả năng bị bệnh phổi nghiêm trọng thường xảy ra ở những người hút thuốc,như bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính ( chronic obstructive pulmonary disease). Bài báo được đăng tải trong số tháng 3 của The American Journal of Respiratory and Critical Care Medicine.
Để thực hiện công trình nghiên cứu này,BS Judith Garcia-Aymerich và các cộng sự viên của Viện Nghiên Cứu Y Học ở Barcelona đã theo dõi sức khỏe của 6.800 người,hút thuốc và không hút thuốc,trong vòng 11 năm.Trong số những người này,928 người phát sinh bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính.
Công trình nghiên cứu nhận thấy rằng trong số những người hút thuốc,bệnh xảy ra khoảng 20 % ít hơn nơi những người luyện tập thể dục ở mức độ vừa hoặc cao..
“ Có thể là luyện tập thể lực đều đặn có thể chống lại tác dụng của việc hút thuốc qua cơ chế chống viêm và chống oxi hoá

( INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE  8/3/2007)

10/ ĐIỆN THOẠI CẦM TAY KHÔNG GÂY UNG THƯ


Đó là kết luận của một trong những nghiên cứu dịch tễ rộng rãi nhất về các nguy cơ ung thư gây nên do sử dụng điện thoại cầm tay.
Một nghiên cứu dich tễ đã theo dõi trong 10 năm hơn 420.000 người Đan Mạch ở tuổi trưởng thành sử đúng điện thoại cầm tay từ năm 1982 đến 1995.Trong số các người sử dụng điện thoại cầm tay này,có 14.249 người đã phát sinh một bệnh ung thư,con số hơi dưới 15.001 trường hợp được dự kiến,được tính trên cơ sở các thông kê trong nước.Kết luận: điện thoại cầm tay không gia tăng nguy cơ ung thư.Các nhà khoa học đã so sánh nhóm này với dân đan mạch ở tuổi trưởng thành,về tỷ lệ các loại ung thư bị nghi là có liên quan với việc sử dụng điện thoại cầm tay.Các nhà nghiên cứu đã không tìm thấy một sự gia tăng nào về nguy cơ u não,ung thư máu,neurinome acoustique(u của dây thần kinh thính giác),u các tuyến nước bọt hoặc nhãn cầu. Bởi vì các tỷ lệ này giống hệt nhau,do đó chúng tôi đã kết luận rằng không có mối liên hệ giữa việc sử dụng điện thoại cầm tay và nguy cơ phát sinh ung thư".Joachim Shuz thuốc Viện Dịch Tễ Ung Thư Copenhague,Đan Mạch,đã giải thích như thế.Nghiên cứu này không đề cập đến bệnh ung thư của trẻ em,về ảnh hưởng của sự kiện sử dung lien tục điện thoại cầm tay,về sự phát sinh các bệnh khác.Song hành,OMS sẽ công bố vào giữa năm 2007 một loạt các nghiên cứu về cùng chủ đề được tiến hành trong 14 quốc gia.Nhưng ở đây,phương pháp có khác:nghiên cứu sẽ so sánh việc sử dung điện thoại cầm tay đối với những người ung thư cũng như đối với sự kiện sử dụng của những người lành mạnh.

(SCIENCE ET VIE 2/2007)

DAI LINH
9/3/2007

 

Thông Tin Y Học

  • Thông tin Y học - Số 39 - Đại Linh
  • Thông tin Y học - Số 36 - Đại Linh
  • Cấp cứu Nội khoa số 5 -  BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 4 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 3 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 2 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Giới thiệu Dược phẩm mới số 1 -  Võ Đăng Đài
  •  Thông tin Y học - Số 35 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 34 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 33 - Đại Linh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 1 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Thông tin Y học - Số 32 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 31 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 30 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 29 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 28 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 27 -Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 26 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 25 -  - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 24 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 23 -  - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 22 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 21 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 20 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 19 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 18  - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 17 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 16 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 15 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 14 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 13 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 12 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 11 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 10 -  Đại Linh
  •  La Circulation ExtraCorporelle - Bùi Phương
  • Bài vở , hình ảnh, dữ liệu đăng trên trang nhà của Y Khoa Huế Hải Ngoại (YKHHN) hoàn toàn có tính thông tin hay giải trí. Nội dung của tất cả bài vở, hình ảnh, và dữ liệu này do tác giả cung cấp, do đó trách nhiệm, không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chủ trương của trang nhà YKHHN.
    Vì tác quyền của mọi bài vở, hình ảnh, dữ liệu… thuộc về tác giả, mọi trích dịch, trích đăng, sao chép… cần được sự đồng ý của tác giả. Tuy luôn nỗ lực để độc giả được an toàn khi ghé thăm trang nhà YKHHN, chúng tôi không thể bảo đảm là trang nhà này hoàn toàn tránh được các đe dọa nhiễm khuẫn hay các adwares hay malwares… Vì chúng tôi không thể chịu trách nhiệm cho những tổn hại nếu có, xin quý độc giả cẩn trọng làm mọi điều có thể, ví dụ scanning, trước khi muốn sao chép, hoặc/và tải các bài vở từ trang nhà YKHHN xuống máy của quý vị.