Là trai thời loạn, đa số thanh niên sinh viên Miền Nam Việt Nam đều lần lượt gia nhập quân đội làm bổn phận bảo vệ non sông. Cùng một ư thức, các sinh viên vừa tốt nghiệp y khoa, nha khoa và dược khoa, cũng trở thành những quân y sĩ, quân nha sĩ và quân dược sĩ của Cục Quân Y, đă có mặt trên các chiến trường, trong các tổng y viện, quân y viện, bệnh viện tiểu khu, bệnh viện dă chiến, trung tâm hồi lực, trung tâm huấn luyện... hay trong các liên đoàn quân y của các quân khu, trong các binh đoàn Bộ Binh, BĐQ, Lực Lượng Đặc Biệt, Hải Quân, Không Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù...với nhiệm vụ chửa trị thương bệnh, kể luôn cả thương bệnh VC, săn sóc sức khỏe cho mọi quân nhân và gia đ́nh của họ, làm công tác xă hội...Và như những quân nhân khác, những quân y sĩ, quân nha sĩ, quân dược sĩ cũng đă tử trận, tử nạn, chết trong tù CS hay khi vượt biên vượt biển mà con số lên đến gần 80 vị.
BBT xin mời quư Anh Chị Em đọc bài "Vũ Đức Giang". Tuy câu truyện mang tên của một quân y sĩ, nhưng nội dung bài viết mổ xẻ t́nh trạng và hoàn cảnh nói chung của các quân y sĩ thời chiến. Bs. Vũ Đức Giang và Bs. Phạm Anh Dũng, tác giả bài viết, là đồng môn thân thiết của nhau, cùng lớp, cùng khóa 21 Quân Y Hiện Dịch và tốt nghiệp lúc với nhau. Đây là bài viết thứ 2 Bs. Phạm Anh Dũng chia sẻ với Hội YKH Hải Ngoại chúng ta.
Gởi kèm theo bài viết này là bản danh sách" Quân Y Nha Dược Hy Sinh Trong Cuộc Chiến", được soạn thảo và đúc kết bởi Bs. Phạm Anh Dũng.
BBT Hội YKH Hải Ngoại trân trọng cám ơn bác sĩ kiêm nhạc sĩ Phạm Anh Dũng.
Vũ Đức Giang
Phạm Anh Dũng
(Vũ Đức Giang, trích từ Kỷ Yếu Y Khoa Sài G̣n 1967-1974)
Đây là bài viết về chính là về Vũ Đức Giang, một người bạn thân cùng lớp tại trường Đại Học Y Khoa Sài G̣n và cùng khóa Quân Y Hiện Dịch 21, khóa Quân Y Hiện Dịch (QYHD) cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (QLVNCH). Cũng thêm vào bài là các chi tiết, tạm gọi là bối cảnh sơ lược, đáng nhắc lại, c̣n ghi nhận được của từng năm học, liên quan đến cả học tŕnh Y Khoa bảy năm 1967-1974.
Tôi thi được vào năm Dự Bị Y Khoa (APM), niên khóa 1967-1968. Lúc đó có biến cố Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân 1968, ảnh hưởng mạnh đến mọi người và chúng tôi, tất cả sinh viên, phải học quân sự tức là tham dự chương tŕnh Quân Sự Học Đường (QSHĐ) để có kiến thức phải dùng khi hữu sự. Chính quyền VNCH lúc đó chủ trương QSHĐ để hy vọng khi cần đến, sinh viên dân sự cũng có thể cầm súng chiến đấu như các quân lính chuyên nghiệp.
(H́nh chụp 1968 khi Lớp Dự Bị Y Khoa (APM) tham dự chương tŕnh Quân Sự Học Đường.
Hàng đứng c̣n nhận được từ bên trái có Vơ Văn Thành, Bùi Trọng Cường, khoảng giữa có Phan Xuân Tuấn, Dương Thanh Trắc, Nguyễn Kỳ Chân; từ phải có Vũ Dũng, Nguyễn Văn Quốc, Đỗ Danh Toàn, Phạm Anh Dũng.
Hàng ngồi đeo kính đen là Nguyễn Đăng Cung, khoảng giữa có Nguyễn Hữu Nhiệm, cạnh người áp chót bên phải là Trần Trung Ḥa.)
Về học hành chính thức, chúng tôi là sinh viên của trường Đại Học Khoa Học Sài G̣n và tuy học lớp tại Cơ Thể Học Viện cũ của trường Y Khoa ở đường Trần Hoàng Quân, nhưng thực tập lại ở Khoa Học Đại Học Đường Sài G̣n.
Chúng tôi học cả năm như vậy và cuối năm thi lên vào lớp Y Khoa năm thứ Nhất. Kỳ thi cuối năm của lớp APM thật khó khăn. Lớp Dự Bị Y Khoa tổng số có khoảng 380 người, mà chỉ có khoảng 250 người đỗ kỳ thi, được lên lớp. Trong số các bạn thi rớt cuối năm, có khoảng 50 người được “ở lại lớp” v́ chỉ có thi trượt thực tập, c̣n số c̣n lại bị loại hẳn ra khỏi chương tŕnh APM, v́ trượt thi viết. Những bạn không may mắn bị "rớt" lại APM, tôi nhớ có một số rồi cũng tốt nghiệp được Y Khoa, nhưng trễ lại 1 năm như Nguyễn Như Thành, Lê Thành Đấu, Trần Hoàng Long, Nguyễn Vơ Khanh...
Riêng cá nhân tôi, cả năm chỉ đi học thực tập là những giờ bắt buộc và chả mấy khi đi học ghi bài. Thường tôi chỉ đợi “cua” (bài học ghi lại) của ban Đại Diện lớp in, phát ra là đi lănh về học. Cuối năm cứ thế mà đi thi và cũng thi đỗ được hết, và được vào năm Y Khoa thứ Nhất. Tôi phải thú nhận thật may mắn, đậu hạng 9 hay 10 ǵ đó, và nên c̣n được học bổng của Bộ Y Tế khoảng 10 ngàn đồng Việt Nam, tiền lúc đó.
Lên năm thứ 1 Y Khoa, vào chính thức
học ở trường Y Khoa, thay v́ Dự Bị Y Khoa
APM do các giáo sư trường Đại Học Khoa
Học giảng dạy, cách thi cử đổi khác.
Cứ một vài tháng lại có kỳ thi, không Cơ Thể
Học, cũng Sinh Hóa Học, rồi Mô Học... Quen
tật xấu, tôi cũng chẳng đến trường
ghi bài. V́ các kỳ thi gần nhau quá, ban Đại Diện
lớp đôi khi không đủ th́ giờ in bài kịp cho
sinh viên học. Kỳ thi đầu tiên của Cơ
Thể Học sắp đến, chỉ c̣n có vài ngày, tôi
vẫn chưa có một số tài liệu do Bác Sĩ Y
Khoa Trần Anh, Thạc Sĩ Nhân Chủng Học, giáo
sư chính phụ trách môn Cơ Thể Học, giảng
dạy. Không đủ bài vở, tôi đến
trường hỏi mượn để chép lại
học. Đang vớ vẩn trước cái Đại
Giảng Đường to lớn, th́ vừa đúng lúc
nghỉ giải lao, sinh viên cùng lớp kéo nhau ra khỏi
cửa. Là năm đầu tiên học ở trường
Y Khoa, ít khi đến trường và lớp, tôi cảm
thấy lạc lơng, nh́n ai cũng xa lạ cả.
Tần ngần một lúc khá lâu, gặp một sinh viên khác
vừa bước ra sau cùng. Tôi trông anh bạn đeo kính
cận thị, có vẻ hiền lành, thành đánh bạo
lại làm quen. Rất niềm nở và thông cảm,
người bạn chưa quen trước và tốt
bụng đó cho tôi địa chỉ nhà, hẹn buổi
tối lại cho mượn bài. Đó là lần
đầu tiên tôi gặp và quen Vũ Đức Giang.
Nhà của hai đứa cũng
gần nhau, đều ở Đa Kao. Tôi ở
đường Tự Đức. Nhà của Giang ở
trong một ngơ của đường Phạm Đăng
Hưng. Đó là một trong những nhà nhỏ, ngay
dưới chân cầu Sắt, chiếc cầu nằm trên đường
Nguyễn Văn Giai lối qua Gia Định, vẫn
được gọi là "cầu Sắt", v́ cầu
làm bằng sắt và tôi không biết tên thật của cầu
là ǵ. Đi vào ngơ phía trong sâu chút nữa là nhà của Lê Huy
Ḥe, cũng là bạn cùng lớp. Nhà của Giang đơn
sơ, nhưng sạch sẽ. Giang là con trưởng ở
với bố mẹ, một em trai và một em gái. Tôi không
nhớ nhiều về bố của Giang v́ ông mất
sớm, nhưng bà mẹ th́ thật hiền dịu,
chiều và thương con, một bà mẹ Việt Nam lư
tưởng. Cậu em trai, kém Giang và tôi chỉ một vài
tuổi nhưng rất kính trọng, lễ phép với anh
và bạn của anh. Cô em gái Giang ngọt ngào, giản
dị và dễ mến.
Ngay buổi tối
đầu tiên, Giang đă hơi làm lạ khi thấy tôi
rủ đi uống cà phê nghe nhạc và tôi cũng hơi
ngạc nhiên khi thấy bạn nhận lời ngay. Sau
đó hai đứa mới khám phá ra là người bạn
mới tuy có nhiều điểm khác ḿnh, nhưng cũng có
cùng một sở thích là âm nhạc. Giang học rất
chăm và khá đều, c̣n tôi, thú thật, hơi... làm
biếng, chỉ bắt đầu học lúc sắp thi. Là
cầu thủ bóng tṛn loại khá, lúc nào Giang cũng có
mặt trong những lúc tranh giải túc cầu của
lớp Y Khoa, trong khi tôi chỉ biết xem đá bóng và
biết cổ vũ, ḥ hét, hoan hô. Tính của Giang trầm
lặng, ít nói và tôi, ngày đó, sôi nổi hơn. Giang thích và
hay ôm đàn guitar dạo, nhưng cũng như tôi, v́ chính
yếu chỉ tự học, nên không khá lắm. Giang
đập trống th́ khá hơn một chút. Về tŕnh
diễn âm nhạc, Giang đủ sức tham dự
những buổi văn nghệ tất niên tài tử
trong lớp. Giang rất thích nghe nhạc, loại nhạc
như nhạc Tiền Chiến, T́nh Ca Từ Công Phụng,
Ngô Thụy Miên (học cùng thời với Giang, Nguyễn
Hữu Thanh, Nguyễn Tiến Dũng, Vơ Tá Hân... ở
trường Trung Học Nguyễn Trăi)... Vũ Đức
Giang kể chuyện "hồi APM" lúc học Quân
Sự Học Đường, hay đi hát đàn với
hai bạn cùng lớp là Vương Đức Hậu và
Nguyễn Minh Huấn. Có khi họ c̣n "chở ba" trên
xe gắn máy và người nào ngồi giữa th́ cầm
cái đàn guitar. Nghe kể như vậy, tôi thấy
người bạn mới của ḿnh tính t́nh thật là
"văn nghệ" rồi! C̣n cá nhân tôi, mê đàn hát
từ những ngày c̣n bé. Cả hai đứa v́ không có
"điều kiện" nên đều chưa bao
giờ được học nhạc chính thức, từ
thầy hay từ trường lớp, càng làm cho hai
đứa hiểu nhau, gần nhau, rồi dần dần
thân nhau nhiều.
Giang và tôi từ đó rủ nhau, ít nhất một tuần một lần, đi quán để uống cà phê, để hút thuốc lá, nói chuyện và nghe nhạc. Hai quán cà phê chúng tôi thường đến là quán Hân và Ly Tao. Cả hai quán đều có những nhạc thật hay.
Quán Hân ở đường Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao, trước cửa là hiệu phở Hoàn Kiếm, ngay gần nhà. Con gái chủ quán, thỉnh thoảng ra quầy thu tiền, là một cô gái xinh xinh, ngày đó, có một thời gian ngắn cũng đă là "cô em nhỏ" của Vũ Quốc Phong, một bạn cùng lớp Y Khoa. Đây là nơi chúng tôi được nghe những băng nhạc hiếm, có Duy Trác đằm thắm ấm áp hát "Thuở Ban Đầu" (Phạm Đ́nh Chương), Anh Ngọc điêu luyện với "Mắt Biếc" (Cung Tiến), Mai Hương thiết tha "Giấc Mơ Hồi Hương" (Vũ Thành), Châu Hà hát "Suối Tóc" (Văn Phụng) êm như mơ...
Quán Ly Tao gần nhà tù Chí Hoà. Chủ quán, ca sĩ Ngọc Long, là một người cao lớn. Quán có người hầu bàn cũng là con gái nhỏ nhắn của anh Ngọc Long. Cô bé gọi chúng tôi là chú xưng cháu, làm không khí ấm cúng và tự nhiên. Ở đây, Giang thường yêu cầu một băng nhạc rồi thẫn thờ, mê mẩn nghe bài "Chiều Mơ" của Vũ Đức Sao Biển do Ngọc Long hát:
"Chiều mơ anh sẽ về từ đèo cao hút gió, có hoa xưa chờ người xưa đó.
Chiều mơ anh thấy em buông tóc bên trời, buồn một ḿnh trên tuổi xuân phai.
Chiều mơ anh cầm đàn về bờ xưa suối biếc, hát em nghe ngàn lời thương tiếc...".
Tôi thấy bạn rất có lư, Ngọc Long
ít khi hát, có giọng thật trầm, thật
"đầy", và hát bản này quả có một không
hai. Vũ Đức Sao Biển nổi tiếng với
bài "Thu Hát Cho Người" do Anh Ngọc hát
thật hay, nhưng theo ư riêng của Giang "Chiều
Mơ" tuyệt diệu hơn và lúc đó không
được ai khác ngoài Ngọc Long tŕnh bày, tuy sau này có
Mai Hương hát ở Hải Ngoại.
Đúng như cảm nghĩ ban
đầu khi gặp gỡ, Vũ Đức Giang rất
tốt với bạn bè. Bản tính rất hiền, và
nhiều khi ngây thơ như một cô gái nhỏ. Giang
hiền lành, hầu như không biết giận ai, thành hay
bị tôi và các bạn thân khác trong cùng lớp Y Khoa như
Quách Anh Dương, Nguyễn Hữu Thanh, Nguyễn
Tiến Dũng... "bắt nạt" thường xuyên
và Giang thường chỉ phản ứng bằng một
nụ cười nhẹ nhàng. Tính Giang rất nhạy
cảm, và thỉnh thoảng bị tôi trêu, v́ Giang có thể
dưng dưng "mau nước mắt" khi có
chuyện ǵ cảm động, ngay cả chỉ lúc nghe
những bản nhạc đầy t́nh cảm mạnh
như "Bà Mẹ Gio Linh" (Phạm Duy) do Thái Thanh hát.
Giao thiệp với Giang khá lâu tôi mới biết thêm về
con người của bạn. Tuy hiền lành, thích
chiều bạn, hay nhịn người khác nhưng
một khi đă tin vào chuyện ǵ th́ không có khi nào thay
đổi ư kiến, nếu không có những sự kiện
vững chắc chứng minh khác đi.
Năm thứ 1 Y Khoa của chúng
tôi đánh dấu bằng một chuyện đau ḷng. Tháng
Ba 1969, Giáo Sư Thạc Sĩ Trần Anh, một bác sĩ
rất giỏi, đang đảm nhiệm chức
Viện Trưởng Viện Đại Học Sài G̣n ngoài
chức Trưởng Khu Cơ Thể Học Viện
của Đại Học Y Khoa, bị ám sát, bắn
chết bằng súng lục, trong khi sau giờ làm việc,
ông đi bộ từ trường Y Khoa về nhà, gần
Đại Học Xá Minh Mạng. V́ ông là giáo sư chính
hướng dẫn cho Y Khoa 1, đám tang của thầy,
chúng tôi thay nhau "đứng gác" quan tài. Phải nói,
tất cả chúng tôi và nhất là Vũ Đức Giang
bị xuống tinh thần khá lâu, v́ cái chết của
người thầy đáng kính trọng. Giang tính t́nh
nhậy cảm buồn đến cả tháng mới nguôi.
Măi sau 1 thời gian giáo sư Bác Sĩ Thạc Sĩ
Nguyễn Hữu từ Pháp về, đứng ra lănh trách
nhiệm dẫn dắt sinh viên Y Khoa 1 môn Cơ Thể
Học.
Sau khi thi đỗ lên năm Y Khoa 2, một
buổi tối hơi lành lạnh, khí hậu hiếm
thấy ở Sàig̣n, hai đứa khi "ngồi" quán
Hân nh́n khói thuốc bay lững lờ, ngắm từng
giọt cà phê phin đen chảy và nghe nhạc, Giang
đột nhiên cho tôi biết quyết định nộp
đơn thi vào QY (Quân Y) và rủ tôi cùng theo. Giang nói cho tôi
nghe về ước muốn trở thành y sĩ nhảy
dù. B́nh thường, Giang chỉ nhỏ nhẹ, nhưng lúc
đó nh́n và nghe Giang, thấy nó thật cương
quyết. Tôi đồng ư ngay, không chần chừ, nhưng
theo tôi binh chủng nào cũng được. Về sau kéo
thêm được Vũ Quốc Phong, Nguyễn Minh
Huấn, Đoàn Trung Bửu... cũng thi đỗ và gia
nhập Quân Y. Khoảng thời gian đó vừa sau vụ
Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân 1968, Quân Lực
Việt Nam Cộng Ḥa miền Nam vừa chiến thắng
một cách dũng cảm và tinh thần thanh niên đang
được kích thích sôi động.
Cuộc đời Quân Y có
những điều thật bất ngờ. Chúng tôi cứ
nghĩ Sĩ Quan Quân Y sẽ gian khổ khi ra
trường lúc chiến đấu, c̣n lúc là Sinh Viên Quân Y
th́ chỉ tập tành quân sự chút ít mỗi mùa Hè, và trong
năm th́ giờ dành cho việc học. Một buổi
trưa nắng và gió tháng Giêng 1970 sau khi làm thủ tục được
phát quần áo, giày "bốt đờ sô"... tôi và Giang
chở nhau vào trường Quân Y ở đường
Nguyễn Tri Phương, Sài G̣n bằng chiếc xe gắn
máy "Honda dame" của tôi để tham dự Tám
Tuần Lễ Huấn Nhục. Hai đứa khệ
nệ khiêng mỗi đứa một bị to. Ngoài
những đồ đạc nhà binh lỉnh kỉnh
như "bi đông", xẻng xúc đất, "gào
mên"... c̣n nặng đầy sách vở,
tưởng sẽ vào đó ngồi học bài ngay! Ba ông anh
huynh trưởng sinh viên quân y do Sinh Viên Quân Y năm thứ
6 Tô Phạm Liệu chỉ huy đă đợi sẵn
ở cổng vào. Không thấy đàn anh nào cười
đón mừng cả! "Ông" nào trông cũng nghiêm và khó
quá. Mấy chục tân sinh viên Quân Y, mới nhập ngũ,
là những sinh viên Y Khoa 2 lớp chúng tôi, lớp Y Khoa 1
như Lê Quang Minh, Phạm Quang Tố, Ngô Hoàng Lâm, Lê Thành
Đấu...), sinh viên Dược như Mai Gia Thược
(Thược về sau tự tử trong trại Cải
Tạo), Phạm Đức Thụy... và sinh viên Nha. Vũ
Quốc Phong có giọng nói to, hoạt bát và có dáng
điệu chững chạc nhất được cử
làm Tân Sinh Viên Đại Đội Trưởng cho
Đại Đội Tân Sinh Viên Quân Y. Ngay sau đó, đám
tân sinh viên Quân Y chúng tôi được lệnh ôm gói hành
trang nặng trĩu chạy chung quanh Vũ Đ́nh
Trường của trường Quân Y, theo ba ông đàn anh
cho đến khi gần... xỉu. Thật là bất
ngờ!
(H́nh chụp tháng Giêng 1970.
SVQY Tô Phạm Liệu, người mặc quân phục, đứng đối diện các các Tân SVQY đa số mặc thường phục, đến tŕnh diện nhập ngũ ở Trường Quân Y.
Từ phải qua trái của hàng đầu tiên, c̣n nhận ra được là Tân SVQY Châu Văn C̣n, Lê Quang Minh, Ngô Hoàng Lâm, Trần Ngọc Thạch. Sau lưng Châu Văn C̣n là Lê Thành Đấu.
SVQY Ngô Thế Khanh mặc quân phục, đứng ở b́a trái của h́nh)
Rồi cứ như vậy
mỗi ngày, các đàn anh sinh viên quân y như Tô Phạm
Liệu, Phạm Gia Cổn, Phạm Đặng Long Cơ,
Nguyễn Ngọc Ấn, Ngô Thế Khanh... lần
lượt thay phiên nhau cho các đàn em mới "nếm
mùi" Quân Đội. Khi c̣n là sinh viên dân sự, tôi đă
từng đi học quân sự ở Quang Trung hai lần và
Thủ Đức một lần nhưng không thấy
chỗ nào có thể gian lao như là tám tuần lễ
huấn nhục ở trường Quân Y. Những khóa
huấn nhục quân y trong những năm trước
chỉ có 6 tuần và khóa của chúng tôi lại kéo dài
đến 8 tuần. Theo các đàn anh cho biết th́
những năm trước cũng có thời gian huấn
nhục nhưng v́ "thông cảm" là cùng với quân
sự, các đàn em vẫn phải "học chữ"
ở các trường Y Nha Dược. Khóa của tôi th́
đặc biệt sao đó, có nhiều đàn anh Quân Y có lư
tưởng mạnh và nhiệt thành do đó muốn
huấn luyện chúng tôi thành những sĩ quan ṇng cốt
cho ngành Quân Y trong tương lai. Dù muốn hay không,
Trường Quân Y cũng là một trong những
trường Sĩ Quan Hiện Dịch khác của Quân Lực
Việt Nam Cộng Ḥa như trường Vơ Bị Quốc
Gia Đà Lạt, trường Sĩ Quan Chiến Tranh Chính
Trị... Tân Sinh Viên Quân Y ngoài sự huấn nhục
thể xác và tinh thần ở trường Quân Y, chắc
chắn không thể so với trường chuyên nghiệp
quân sự Vơ Bị Đà Lạt nhưng chúng tôi c̣n thêm
sự lo lắng như những sinh viên Y Nha Dược
ngoài dân sự là vẫn phải đi học, học bài
rất nhiều của các ngành Y Dược Nha. Và nếu
không thi đỗ, th́ bị ở lại lớp hay có khi
"ra trường sớm" (sortie latérale) tức là
bị loại khỏi trường Y Khoa, nếu thi
trượt hai lần. Nhất là ngày đó chúng tôi Y Khoa Hai
có môn Kư Sinh Trùng Học do Giáo Sư Bác Sĩ Đỗ Thị
Nhuận tuy rất tận tâm nhưng cũng nổi
tiếng rất nghiêm khắc, trong việc học hành, thi
cử của sinh viên và có lúc thẳng tay "đánh
rớt" những người không đủ
điểm.
Trong số các đàn anh có ba người khó tính nhất cùng ở một toán huynh trưởng huấn luyện là anh Cảnh, Đức và Ấn (anh Nguyễn Ngọc Ấn khóa 18 Quân Y Hiện Dịch, sau đi Biệt Động Quân, tác giả bài "7 Ngày Ở Quảng Trị" viết về chuyện bị bắt làm tù binh ở trận Hạ Lào, khi bị đưa ra Bắc, và măi sau mới được hoán chuyển tù binh về lại được miền Nam). Ba ông này huấn nhục chúng tôi theo đúng nghĩa huấn nhục, ngay từ buổi đầu tiên với các h́nh phạt nặng, v́ những lư do đôi khi thật là vô lư. V́ không được chuẩn bị tinh thần nên các đàn em rất ngạc nhiên và có thể nói là bất măn. Một buổi chiều, như thường lệ, ba ông đàn anh đem cả Đại Đội Tân Sinh Viên ra phạt tới tấp v́ một cái lỗi rất là nhỏ, tôi không nhớ rơ và hành xác đàn em khoảng một tiếng đồng hồ dưới trời nắng chang chang. Đoán biết có sự bất măn, anh Cảnh trước khi giải tán đại đôi, tuyên bố sẽ tập họp lại buổi tối và nói rơ ràng nếu có ai không bằng ḷng th́ lúc đó cho biết để các đàn anh sẽ cho phép "rời khỏi Quân Đội". Giang, vài bạn nữa và tôi có họp lại bàn chuyện này. Mấy ông đàn anh th́ cũng dự định "dọa già" các em thôi. Các ông em ngây thơ, tin thật và hẹn nhau nhất định giữ vững lập trường dù có ǵ xảy ra. Tối hôm đó, Vũ Đức Giang, Nguyễn Minh Huấn và Phạm Anh Dũng đă đứng ra khỏi hàng để được "cởi áo nhà binh", như các anh đă hứa hẹn. Sau đó th́ chúng tôi "vỡ mộng"! Những đàn anh ra lệnh cho Vũ Quốc Phong đứng ra phạt chúng tôi. Phong nhận thấy sự vô lư, v́ các bạn của ḿnh chỉ bày tỏ ư kiến khi được đàn anh hỏi thôi, nên nhất định không tuân lệnh. Ba ông đàn anh nổi giận phạt riêng Phong trước hàng quân và rồi phạt cả đại đội chạy vài ṿng Vũ Đ́nh Trường. Riêng ba đứa chúng tôi th́ biết thêm h́nh phạt Dă Chiến là ǵ, đêm hôm đó. Các ông anh thay nhau phạt 3 đứa tôi cả đêm dài. Đến sáng ra, khi hỏi lại chúng tôi vẫn cương quyết giữ ư kiến đ̣i "rời khỏi Quân Đội" như đàn anh đă hứa. Riêng Vũ Đức Giang, khi được cho nghỉ vài phút, đă thu dọn cho đồ nhà binh vào bị và mặc sẵn quần áo dân sự từ lúc nào rồi. Lúc này các ông đàn anh cũng hơi lúng túng, không biết xử trí ra sao. Huynh trưởng Tô Phạm Liệu phải đến gọi riêng ba đứa em ra khuyên bảo. Anh Liệu nói nhiều về t́nh cảm anh em trong gia đ́nh Quân Y và giảng cho các đàn em bướng bỉnh hiểu về mục đích chính của thời gian huấn nhục chỉ làm cho tân sinh viên tập quên đi cá nhân của ḿnh và nghĩ đến tập thể, tương lai, tổ quốc... Anh nói rất hay, chúng tôi cảm động nhiều và riêng Giang phải long lanh nước mắt.
Chúng tôi
hiểu, không xin "rời khỏi Quân Đội"
nữa và rồi theo thời gian, cũng quen đi những
huấn luyện về thể xác và tinh thần để
sửa soạn thành những Quân Y Sĩ trong tương
lai. Thôi th́ đủ tṛ phạt, hít đất,
chạy... Một lần tôi đang ở trong hàng nghe anh
Phạm Gia Cổn "thuyết pháp", không hiểu sao,
lỡ dại không nhịn được phải ph́
cười, và bị anh phạt. Anh cho là tôi
"cười nhỏ quá", nhiều người
chưa được nghe và bắt thằng em đứng
giữa hàng quân cười thật to 10 lần để
cả Đại Đội được nghe. Tôi nhớ
măi bị khản giọng, mất tiếng đến cả
mấy ngày. Nhưng kể từ ngày đó, 2 anh em chúng tôi
lại quen biết thân nhau, thân nhau nhiều, thân nhau măi cho
đến khi anh qua đời năm 2022. Những tuần
lễ huấn nhục của Tân Sinh Viên cũng qua đi,
trở thành những kỷ niệm thú vị không bao
giờ quên. Khi chúng tôi tổ chức Đêm Lễ Gắn
Alpha theo sau là buổi văn nghệ măn khóa, cả Giang và
tôi đều vào ban văn nghệ tŕnh diễn. Tôi c̣n
nhớ măi kỷ niệm Nguyễn Minh Huấn hôm đó hát
"Nguyệt Cầm" của Cung Tiến-Xuân
Diệu.
Lên năm thứ 3 Y khoa, sinh viên
bắt đầu thực tập ở bệnh viện và
cũng bắt đầu được chia đi gác
đêm. Tôi và Giang có một kỷ niệm không bao giờ
quên ở nhà thương Hồng Bàng là nơi chuyên trị
những bệnh nhân bị bệnh Lao, nhiều
người thật nặng, ngày nào h́nh như cũng có
người chết. Pḥng trực cho sinh viên Y Khoa ở
chỗ vắng vẻ, cách xa ṭa nhà chính, nơi bệnh nhân
nằm dưỡng bệnh. Ban đêm vắng mà bị
gọi khi bệnh nặng hay khi bệnh chết th́ rất
ngại, v́ phải đi bộ khá xa và
"đường xá" th́ tối mù mịt. Các đàn
anh Y Khoa thường bảo là chỗ đó có... ma!
Chuyện ma của nhà thương Hồng Bàng cũng
đă có nhắc đến trong quyển "Thế
Giới Trường Thuốc" của Đặng
Đức tức Bác Sĩ Đặng Đức
Nghiêm. Tôi vừa đọc xong quyển sách vài ngày hôm
trước và vẫn c̣n đang bị ám ảnh. Anh
bạn cùng lớp, tôi không nhớ rơ tên, được chia
trực cùng đêm lại bị ốm, nên tôi "năn
nỉ", rủ Giang đi cho đỡ sợ. Đêm
khuya hôm đó đang ngủ th́ nghe tiếng động
lục cục ở ngoài cửa pḥng, Giang giật ḿnh
thức giấc và lay tôi dậy. Tôi thu hết can
đảm dậy bật đèn, lên tiếng hỏi
nhưng không thấy ai trả lời. Tiếng động
nghe như là chân người mang guốc bước qua
lại trên sàn xi măng tiếp tục khá lâu cũng
đến khoảng 5-10 phút. Tiếng động đó
cũng mất đi nhưng cả hai đứa
đều sợ xanh mặt, để đèn sáng và không
ngủ được cho đến sáng. May mà đêm đó
cũng không bị gọi lên trại bệnh thành cả hai
nằm im lặng trong giường cho đến lúc
thấy trời sáng tỏ nghe thấy tiếng
người th́ mới ṃ ra ngoài cửa. Chúng tôi cũng
không t́m được, thật ra là không dám đi t́m lư do
của cái tiếng động kỳ quái giữa đêm
khuya vắng. Cũng có thể chỉ là do gió mạnh
đập cành cây hay cái ǵ vào tường hay cửa sổ
chăng?
Cũng nói qua, vào khoảng 1970, sau
Chiến Dịch Campuchia của quân lực Hoa Kỳ và
QLVNCH và v́ bị "cáp duồn" như các kiều bào
Việt khác, các sinh viên học Y Khoa Campuchia như Nguyễn
Mạnh Khang, Hà Phi Phụng, Mai Thế Vĩnh, Hồ Hoàng
Trang, Nguyễn Thanh Phong... phải chạy thoát về
Việt Nam để cuối cùng được nhận
vào Y Khoa Sài G̣n, vào lớp Y Khoa Sài G̣n 1967-1974 chúng tôi.
1972, năm của những Mùa Hè
Đỏ Lửa, Đại Lộ Kinh Hoàng, Cổ Thành
Quảng Trị (Chiến Dịch Lam Sơn 72)... Đây
cũng là năm của "Tổng Động Viên" khi
chúng tôi đang học Y Khoa 4, năm thứ Tư Y Khoa. Tôi
nhớ một số anh em "Dân Y" như Hoàng Lộc
(Lộc sau 1975 bị giết chết ở trại Cải
Tạo), Nguyễn Mạnh Khang, Lê Minh Đức, Trần
Thiện Tư, Trần Chánh Khương, Lại
văn Tiến, Nguyễn Minh Quốc, Đào Văn Kim,
Trần Hoàng Hải, Ngô Đăng Tuấn, Lại Hoàng Ân,
Lưu Văn Châu , Trương Hoàng Nghiệp... quá tuổi,
sinh vào 1947 hay trước nữa, bị "đôn
quân", phải nhập ngũ học khóa sĩ quan ở
Đồng Đế, "ra" chuẩn úy. Tuy vậy
một thời gian sau, đa số về sau cũng
được thầy bác sĩ Trần Lữ Y, lúc đó
là Tổng Trưởng Y Tế chính phủ Nguyễn Cao
Kỳ thành có thế lực, can thiệp xin cho về
học lại Y Khoa, nhưng kết quả ra trường
trễ hơn các bạn cùng lớp 1 năm.
1972, chiến tranh bùng nổ lớn ở
miền Trung. Dân Quảng Trị chạy giặc vào tạm
trú hàng chục ngàn người ở những trại
tị nạn xung quanh Đà Nẵng. T́nh trạng y tế
của các trại tị nạn rất nghèo nàn. Không
đủ y sĩ để săn sóc dân và chính phủ
Việt Nam Cộng Ḥa phải nhờ đến các sinh viên
quân y giúp. Tôi và một số anh em sinh viên khác của
lớp Quân Y Y Khoa 4 như Nguyễn Trọng Nghĩa,
Đoàn Trung Bửu, Trương Ngọc Hiền... Quân Y Y
Khọa 5 như Phạm Hiếu Liêm, Bùi Quang Dũng, Bùi
Hữu Phước, Nguyễn Anh Tuấn... Quân Y Y Khoa 3
như Trần Hoàng Long, Trần Đông Giang, Nguyễn
Văn Hăn, Lê Thành Đấu, Nguyễn Vơ Khanh... Quân
Dược như Nguyễn Hiền, Mai Gia
Thược (Thược sau tự tử trong Trại
Cải Tạo) , Châu Minh, Nguyễn Văn Trực,
Nguyễn Quang Toản... được cử ra miền
Trung để giúp vào việc lo y tế cho đám dân tị
nạn vài tháng. Đối với đời sinh viên Quân Y
th́ chuyến đi cũng đầy những lo lắng
nhưng cũng thật thú vị và hồi hộp. Tôi
chỉ có một chuyện duy nhất lo lắng là chị
Nga, bà chị ruột của tôi, vừa bị nám phổi
nhẹ nhưng phải chích thuốc chống Lao Streptomycin
mỗi ngày. Vũ Đức Giang, không phải đi ra
miền Trung chuyến này, biết chuyện và nhận giúp
ngay. Trong những ngày tháng tôi lưu lạc ở Đà
Nẵng, Giang đă đến nhà tôi mỗi ngày để
chích thuốc cho chị Nga. Mẹ tôi hiền nhưng
bố tôi tính khó, nên ít có bạn thường lại nhà.
Giang th́ đặc biệt lại nhà tôi thường xuyên.
Bố mẹ tôi rất quư tính nết hiền, tốt và
lễ phép của Giang. Chị Nga tôi thương mến
Giang coi như em ruột trong nhà.
Sau khi đám Sinh Viên Quân Y ở
Đà Nẵng được vài tháng, tại Sàig̣n Y Sĩ
Đại Tá Nhảy Dù Hoàng Cơ Lân về làm Chỉ Huy
Trưởng Trường Quân Y thay Y Sĩ Đại Tá
Hải Quân Phạm Vận. Đại Tá Lân, ngày đó, là
một người đầy nhiệt huyết và thanh liêm
có tiếng. Tính t́nh ông, nóng nảy, nhưng thẳng
thắn và ông rất được kính nể trong ngành Quân
Y. Đại Tá ra lệnh cho tất cả sinh viên đang
đi quân sự vụ tại miền Trung về lại
Sài G̣n, để tiếp tục việc chính là học Y
Khoa. Theo quan niệm của ông, vấn đề quan
trọng nhất trong việc đào tạo Sĩ Quan Quân Y
giỏi là Sĩ Quan Quân Y phải nghĩ đến
chuyện học trước hết. Chuyện chữa
bệnh cho dân tị nạn để cho người khác,
chính phủ lúc này đă xoay sở lấy
được. Về Sài G̣n, một số anh em, trong
số đó tôi c̣n nhớ có Vũ Đức Giang, Phạm
Anh Dũng, Lư Văn Quư (Quân Nha)... rủ nhau nộp
đơn xin đi học bằng Nhảy Dù, như các khóa
đàn anh trước vẫn được phép, nhưng
không được ông Lân chấp thuận, chắc cũng
v́ lư do này. Giang bực ḿnh nhiều về chuyện đó,
v́ vẫn muốn sẽ gia nhập nhảy dù. Mỗi
lần nh́n "đàn anh mũ đỏ" như Tô
Phạm Liệu, Phạm Gia Cổn... lúc đó đă ra những
đơn vị chiến đấu nhảy dù thỉnh
thoảng vẫn về thăm trường với binh
phục rằn ri, Giang vẫn tấm tắc khen và... mong
ước!
V́ là "gốc" Nhảy Dù
nên Đại Tá Hoàng Cơ Lân hơi có thiên vị cho binh
chủng này và tôi nghĩ có lẽ chính ông đă
tuyển lựa nhiều sĩ quan nhảy dù về
trường Quân Y, có những Y Sĩ như Trung Tá Vũ
Khắc Niệm, Thiếu Tá như Lê Văn Châu, tác giả
quyển "Y Sĩ Tiền Tuyến" được
giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc 1969,
Đại Úy như Hoàng Ngọc Giao, Đường
Thiện Đồng.... C̣n ngành Dược th́ có Đại
Úy Trần Mạnh Anh... và đa số giữ những
chức vụ huấn luyện cho đám sinh viên quân y.
Thật sự đây là điều rất tốt, v́
những vị này phần lớn đều khá và xứng
đáng được làm gương. Cũng có một
số Quân Y Sĩ binh chủng "rằn ri" khác
được "gọi về" phục vụ ở
Trường Quân Y như Thiếu Tá Trần Xuân Dũng
từ Thủy Quân Lục Chiến và Đại Úy Ngô
Thế Vinh, tác giả quyển "Ṿng Đai Xanh" được
giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc 1971,
từ Biệt Cách Dù. Đại Tá Lân để ư
đến sinh viên từ những chuyện tầm
thường nhất như đi đứng, y phục,
ăn uống... cho đến những chuyện quan
trọng thi cử, học hành... Chính ông thường
bất thần xuống khu nội trú xem xét đời
sống sinh viên hầu như mỗi ngày. Nhiều khi tôi có
cảm tưởng ông coi các sinh viên quân y như là những
em nhỏ dại dột của chính ông cần
được săn sóc cho thành người tốt.
Đại Tá Hoàng Cơ Lân, lúc đó, có
rất nhiều ư kiến mới lạ, áp dụng vào
việc huấn luyện sinh viên. Tất cả sinh viên quân
y phải nội trú trong trường Quân Y để
tập quen với đời lính. T́nh cảm giữa các
sinh viên quân y đối với nhau trở thành gắn bó
hơn. Ông lập vơ trường cho sinh viên tập Nhu
Đạo, tôi nhớ có hai Y Sĩ Thiếu Tá Lê Trọng
Tín và Đỗ Danh Thụy hướng dẫn . Ông c̣n
tổ chức những buổi nói chuyện cho sinh viên
mở rộng kiến thức. Nhiều nhân vật nổi
tiếng ngoài dân sự như nhà văn Hoàng Hải Thủy
diễn thuyết về "Y Sĩ và Văn Nghệ",
linh mục Thanh Lăng nói chuyện về "Văn hóa dân
tộc và vấn đề Hùng Vương"... là các
vấn đề tổng quát, văn học nghệ
thuật. Rồi đến Bác Sĩ Giáo Sư Hoàng Tiến
Bảo, Giảng Sư Trần Xuân Ninh, Đinh Hà... nói
về chuyên môn Y Khoa. C̣n có các diễn giả là đàn anh
Quân Y của chúng tôi đă ra trường như Đại
Tá Văn Văn Của về nói chuyện để
truyền kinh nghiệm đến đàn em. Có một hôm,
anh Trần Xuân Dũng, đă từng là Y Sĩ Thiếu Tá
Thủy Quân Lục Chiến, thuyết tŕnh về chuyện
ǵ đó. Tôi ốm không đi được nhưng Giang
đi nghe và khi về kể lại lấy làm thú vị,
thích lắm v́ anh Dũng dáng dấp thư sinh, nhưng nói
chuyện rất hay và có duyên. Từ ngày đó thỉnh
thoảng Giang cũng nói với tôi là có thể sẽ
chọn Thủy Quân Lục Chiến khi đến lúc
ra trường.
Công việc học hành, thi cử
ở trường Y Khoa song song với chuyện quân sự
ở Trường Quân Y rồi cũng qua dần. Hiệp
Định Ḥa B́nh Paris 1973 của Kissinger và Lê Đức
Thọ, khi tôi đang học Y Khoa năm thứ 5, thực
tế chỉ là một "tờ giấy lộn" và
chả hiểu tại sao v́ "nó" mà 2 người này
họ lại được giải Nobel Ḥa B́nh! Bộ
Đội miền Bắc không tôn trọng những ǵ đă
cam kết, vẫn xâm nhập miền Nam và Nam Bắc
vẫn tiếp tục phân tranh. Phải nói tinh thần và
khả năng chiến đấu của quân đội
Việt Nam Cộng ḥa bị suy giảm nghiêm trọng,
nhất là sau khi Richard Nixon từ chức v́ vụ Watergate
vào tháng 8 năm 1974 và viện trợ quân sự của
Mỹ cho Việt Nam Cộng ḥa đă dần bị cắt
giảm rất nhiều.
Lúc đó, chúng tôi ít có giờ học ở
trường hơn những lớp dưới và
được cử đi thực tập nhiều ở
các bệnh viện. Một vài tháng đầu tiên của
năm thứ 5, Giang và tôi đến phiên học ở
Bệnh Viện Nhi Đồng nơi có trẻ con
bị bệnh nặng chết nhiều và chúng tôi
được gọi kư giấy tử, có khi 5, 6 lần
một đêm gác. Tôi nhớ măi Giang được cử
săn sóc một đứa bé trai độ 5 tuổi
bị phù thủng rất nặng, khắp cả
người sưng vù (edema) v́ một bệnh về
thận. Bố mẹ đứa nhỏ đă
định sửa soạn ngày tang ma v́ tưởng con không
thể qua nổi cơn bệnh. Giang rất tận tâm
chịu khó đọc sách, hỏi han những anh nội trú
bệnh viện chữa cho thằng bé bằng kích thích
tố tuyến thượng thận (corticosteroid) và kết
quả rất thành công. Giang khá thật, chỉ một
thời gian ngắn thằng bé đă đỡ hẳn. Bác
Sĩ Giáo Sư Trịnh Thị Minh Hà, trưởng khu
bệnh là người nổi tiếng giỏi nhưng
rất khó tính cũng phải ngạc nhiên và vui ḷng. Tôi nh́n
thằng bé con vui đùa, tung tăng chạy nhảy lúc
được xuất viện mà thầm phục thằng
bạn của ḿnh lầm ĺ, ít nói nhưng có tài. Sinh viên
ngoại trú Y Khoa đầu năm thứ 5 mà có thể làm
được chuyện như vậy không phải dễ.
Giang rất thích trẻ con, sau kỳ học đó lại
nộp đơn quay lại Nhi Đồng một lần
nữa.
Chẳng mấy chốc đă
đến năm thứ 6 là Y Khoa, năm cuối cùng
của học tŕnh 7 năm "dài đăng
đẳng". Một số chúng tôi được
cử để phụ trách huấn nhục đám đàn
em mới vào và "lịch sử lại tái diễn"!
Chúng tôi cũng đến lượt trở thành những
đàn anh ḥ hét, huấn nhục đàn em. Lúc đó, chính
bản thân tôi lại được cử ra làm sinh viên
quân y Đại Đội Trưởng Đại
Đội Tân Sinh Viên, y như là anh Tô Phạm Liệu
năm 1970, phụ trách việc huấn luyện này.
Sau khi thi xong kỳ thi Bệnh Lư ở
trường Y Khoa, Khóa 21 Sĩ Quan Quân Y Hiện Dịch QYHD,
khóa Sĩ Quan Quân Y Hiện Dịch cuối cùng của Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa làm lễ ra trường.
Chúng tôi được chính thức đeo lon Y Nha
Dược Sĩ Trung Úy.
Tháng Hai 1975, "cả
nước" rúng động v́ tỉnh Phước Long
đă mất. Ngày 20 tháng Hai 1975 là ngày chọn đơn
vị. Đa số bạn bè xôn xao, bàn tán về những
binh chủng khác nhau. Tôi vẫn có chủ trương
như cũ, đơn vị nào cũng vậy và cuộc đời
có lẽ có sẵn số mệnh cả. Rồi tùy theo
theo thứ tự đậu cao chọn trước,
đỗ thấp lựa sau.
Những người đậu cao chọn chỗ ở Tổng Y Viện Duy Tân có Bạch Thế Thức, Phan Thanh Hải. Về QYV (Quân Y Viện) có Nguyễn Phan Khuê (Thủ Khoa khóa 21 QYHD) QYV Ban Mê Thuột, Trần Trung Ḥa QYV Quảng Đức, Nguyễn Dương Mỹ QYV Nguyễn Tri Phương, Trần Ngưu Tử và Nguyễn Chí Vỹ chọn về QYV Pleiku.
Có 2 chỗ Hải Quân cũng dành cho những người xứng đáng học khá giỏi và đậu cao là Nguyễn Văn Công và Nguyễn Văn Chiếu.
Nhảy Dù, binh chủng "rằn ri" mũ đỏ, hết khá sớm v́ Châu Hữu Hầu, Trương Văn Như, Nguyễn Xuân Thiều, Nguyễn Văn Liêm, Trần Duy Thanh, Nguyễn Văn Thịnh và Nguyễn Văn Thạnh đă lựa chọn ngay.
Về Thủy Quân Lục Chiến, mũ xanh, 9 người, có Vũ Đức Giang, Nguyễn Tiến Dũng, Bùi Ngọc Sĩ, Nguyễn Bá Linh, Trương Ngọc Hiền, Nguyễn Văn Châu, Bùi Chí Hùng, Huỳnh Đ́nh Đại, và Hồ Đ́nh Dư.
Chọn đi các Bộ Binh của tất cả 4 vùng quân sự: Vùng I Chiến Thuật có Chu Kỳ Đức; Nguyễn Đ́nh Ngọc, Nguyễn Đỗ Quan và Hồ Thanh Tùng chọn Sư Đoàn 1 Bộ Binh; Lê B́nh Đẳng và Vơ Dũng chọn Sư Đoàn 2 Bộ Binh; Vũ Quốc Cường và Phạm Anh Dũng chọn Sư Đoàn 3 Bộ Binh. Vùng II Quân Sự có Phan Ngọc Hà, Lê Vĩnh Thịnh, Thái Văn Châu và Nguyễn Khánh Hỷ về Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Vùng III có Lê Huy Ḥe chọn Sư Đoàn 5 Bộ Binh; Mai Thanh Hồng chọn Sư Đoàn 18 Bộ Binh và Lê Văn Cẩm chọn về Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Vùng IV có Nguyễn Văn Quốc chọn Sư Đoàn 7 Bộ Binh, Huỳnh Thắng Toàn và Nguyễn Văn Đơ chọn Sư Đoàn 9 Bộ Binh, Nguyễn Minh Huấn và Phạm Văn Hạnh cùng về Sư Đoàn 21 Bộ Binh.
Biệt Động Quân, binh chủng "rằn ri" mũ nâu, đang dự định đưa Y Sĩ xuống cấp tiểu đoàn theo như Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến và do đó lấy khá nhiều. Đó là Nguyễn Tài Mai (Sinh Viên Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Sinh Viên Quân Y, "gốc" Thiếu Sinh Quân), rồi đến Nguyễn Quốc Anh, Ngô Bá Bảo, Đoàn Trung Bửu, Nguyễn Kỳ Chân, Nguyễn Đăng Cung, Nguyễn Hữu Chí, Nguyễn Văn Đổng, Nguyễn Hữu Khoát, Nguyễn Phong Nghi, Hồ Sĩ Nghĩa, Nguyễn Văn Tân, Tề Văn Tiếng, Đỗ Danh Toàn, Vũ Ngọc Tuấn và Nguyễn Tấn Việt.
Một số chọn những đơn vị lẻ tẻ, nhưng đặc biệt như Huỳnh Minh Châu về Nha Kỹ Thuật Tổng Tham Mưu, Dương Thanh Trắc chọn Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, Trịnh Ngọc Toản "đi" Tiểu Đoàn 12 Kỵ Binh Thiết Giáp và Phạm Hồng Hải "về" Liên Đoàn 72.
Sau ngày chọn đơn vị, tôi lại nhà Vũ Đức Giang ngày cuối tiễn Giang ra tŕnh diện đơn vị. Giang mặc quân phục "rằn ri" mới, đeo lon đỏ, đội mũ xanh của Thủy Quân Lục Chiến, trông thật lạ mắt. Giang giới thiệu tôi với hôn thê mới của ḿnh, là một giáo sư trường trung học ở Sài G̣n. Cô vợ chưa cưới của Giang tên là Mai, trông thật ngoan và hiền dịu. Trước khi từ giă, Giang đưa tặng tôi cặp lon Trung Úy và bảng tên màu đen dùng cho những đơn vị tác chiến, dặn ḍ tôi phải cẩn thận v́ chiến cuộc đang gay go. Nh́n tôi khá lâu vào mắt, hơi khác thường, Giang bắt tay từ giă. Cả mấy năm trời thân thương với nhau, chúng tôi chưa hề bắt tay nhau bao giờ. Lần đó là lần đầu tiên và không ngờ, cũng là lần cuối cùng tay chúng tôi bắt tay. Đó là lần cuối cùng hai đứa gặp nhau. Giang ra thay một đàn anh ở Tiểu Đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến, tham chiến ngay ở gần Huế. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vừa ra lệnh rút Sư Đoàn Nhảy Dù về trấn giữ Sài G̣n và để một số Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến cùng vài Liên Đoàn Biệt Động Quân thay. Giao chiến khốc liệt đẫm máu xảy ra ở những vùng quanh Huế, Quảng Trị, Đại Lộc... Nguyễn Tiến Dũng thành Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến đóng ở tuyến đầu Quảng Trị.
Cuộc đời Y Sĩ Tiền Tuyến
chúng tôi thật sự khởi đầu.
Tôi đến Sư Đoàn 3
Bộ Binh gần Đà Nẵng. Vũ Quốc Cường
về cùng đơn vị đă tŕnh diện trước
tôi một vài ngày. Ngày Xuân, tháng Ba mà đă nóng như lửa.
11 giờ trưa tŕnh diện Tiểu Đoàn 3 Quân Y.
Dược Sĩ Trung Úy Lê Văn Khoa rủ ăn trưa
với các Y Sĩ Trung Úy của Sư Đoàn 3 như
Nguyễn Hữu Măn, Đào Tư Huyền, Lê Văn Thu...và
chỉ dẫn chút ít về doanh trại. Vũ Quốc
Cường dẫn tôi đi tắm suối xong 2 giờ
chiều cùng ngày tôi được ông Thiếu Tá Y Sĩ
Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Quân Y gửi
đến Trung Đoàn 2 Bộ Binh. Vũ Quốc
Cường được giữ lại Sư
Đoàn. Trung Đoàn 2 của Sư Đoàn 3 và Trung Đoàn 1
của Sư Đoàn 1 là hai đơn vị thiện
chiến có tiếng trong các đơn vị Bộ Binh
của Vùng I Quân Sự. Trung Đoàn 2 đang đóng và
chiến đấu ở Quế Sơn. Tôi đến thay
cho Y Sĩ Trung Úy Bùi Trần Anh ở trung đoàn này đă
được vài năm.
Đến lúc đó tôi mới
thấy cái đời sống thật sự của
những Y Sĩ ở mặt trận không c̣n những lúc
văn chương thơ mộng như ḿnh đă
tưởng tượng, như khi đă đọc
ở quyển "Y Sĩ Tiền Tuyến" của
Trang Châu. Quyển sách của anh Châu, viết có lẽ
chỉ khoảng 5,6 năm trước và thời gian
đó đă trở thành phải nói có những chỗ không
c̣n "hợp thời" nữa. Chiến tranh sau này
phũ phàng và tàn bạo hơn nhiều. Tôi thông cảm và
kính phục các vị Quân Y Sĩ đàn anh bao nhiêu năm
gian khổ, nguy hiểm nơi tiền tuyến. Cảm giác
lạnh lẽo, cô đơn một ḿnh giữa đêm khuya
ở bệnh xá Trung Đoàn thật khó quên. Những
buổi trưa ấn vội nắm "cơm
sấy" vào mồm cho đầy bụng để c̣n
kịp có th́ giờ chữa thương bệnh binh. Tôi
đă ớn lạnh nghe quả pháo vút qua đầu và
rơi cách chỉ hơn trăm thước mà vẫn
phải dặn ḍ y tá b́nh tĩnh. Lúc cảm thấy bất
lực nh́n tủ thuốc trống rỗng với vài viên
thuốc chữa cảm cúm vớ vẩn, không c̣n trụ
sinh trong khi bệnh nhân đợi la liệt với
những vết thương không cần phải
đợi lúc thay băng cũng đă ngửi thấy mùi
nhiễm trùng. C̣n nỗi bàng hoàng, khi thấy lính phải
bỏ tiền túi ra mua đạn. Chuyện khó tin nhưng
có thật! Trận chiến như đă được
xếp đặt đến lúc tàn. QLVNCH chưa mỏi
mệt, nhưng đồng minh Hoa Kỳ đă mỏi
mệt, muốn "bỏ rơi" miền Nam. Quân
miền Nam không c̣n đủ súng ống, đạn
dược trong khi Bộ đội miền Bắc
lại đầy T54, B41, AK47...v́ Nga và Trung Cộng vẫn
chưa bỏ cuộc.
Khóa 21 Sĩ Quan Quân Y Hiện
Dịch, những ngôi sao sáng, những niềm hy vọng
mới của đất nước, của tổ
quốc ra trường đúng những ngày tháng sửa
soạn cho thất trận. Chiến tranh h́nh như bùng
nổ lớn khắp nơi trên khắp bốn vùng
chiến thuật I, II, III và IV. Tháng Ba 1975 các Tân Trung Úy Quân Y
Nha Dược Sĩ chân ướt chân ráo ra chiến
trường, t́m đơn vị, là lúc hầu như
cả một đạo quân Việt Nam Cộng Ḥa một
triệu người đang giao tranh, tan ră, bắt
đầu di tản ngược lại hướng
của ḿnh. Bao nhiêu bạn cùng khóa bị bắt làm tù binh. 8
Quân Y Sĩ mới của Sư Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến ra thay thế đàn anh ở những tiểu
đoàn chiến đấu, 5 người bị bắt khi
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh bỏ
ngỏ Huế. C̣n nhiều người v́ hỗn
độn chưa kịp t́m thấy đơn vị
mới đă chết trận.
Ngày 10 tháng Ba 1975 Ban Mê Thuột bị tấn công.
Chỉ 3 ngày sau Tổng Thống Thiệu đă ra lệnh cho Thiếu Tướng Tư Lệnh Vùng II Quân Sự Phạm Văn Phú bỏ Cao Nguyên. Đại Tá Biệt Động Quân Phạm Duy Tất được thăng Chuẩn Tướng chỉ để dẫn quân dân triệt thoái theo Liên Tỉnh Lộ 7, con đường lâu ngày không dùng trở thành "một con đường máu", đúng nghĩa chữ "máu". Tại "Con Đường Tử Thần" này, Y Sĩ Trung Úy Biệt Động Quân Đoàn Trung Bửu, QYHD khóa 21 của chúng tôi, đă chết khi cố vượt qua một con sông trong chuyến di tản. Cũng trong lúc di tản của Quân Đoàn II, Y Sĩ Trung Úy Bộ Binh Thái Văn Châu, khóa QYHD 21 của chúng tôi, bị bắn chết ở biển Quy Nhơn khi cố bơi từ băi biển ra tàu Hải Quân.
Những đàn anh Quân Y hy sinh trước kia như Đỗ Vinh, Trương Bá Hân, Trần Ngọc Minh, Lê Hữu Sanh, Bửu Trí, Đoàn Mạch Hoạch... đều được vinh danh là anh hùng. Tên của các Quân Y sĩ là tên những Quân Y Viện trên khắp các vùng chiến thuật. Ai biết đến, ai nhắc đến Đoàn Trung Bửu, Thái Văn Châu... ? Lúc chôn, nếu có t́m được xác chắc cũng không được phủ mảnh cờ vàng ba sọc đỏ.
Đoàn Trung Bửu (trích từ Kỷ Yếu Y Khoa Sài G̣n 1967-1974)
Thái Văn Châu (trích từ Kỷ Yếu Y Khoa Sài G̣n 1967-1974)
Ngày 14 tháng Ba 1975, tôi ra đơn vị.
Ngày 19 tháng Ba 1975, Quảng Trị
bị tấn công.
Ngày 20 tháng Ba 1975, Quảng Trị
bỏ ngỏ.
Ngày 23 tháng Ba 1975, Tổng
Thống Thiệu ra lệnh Trung Tướng Tư Lệnh
Vùng I Chiến Thuật, Ngô Quang Trưởng, bỏ
Huế. Tin đồn lúc đó là sẽ có chia cắt
đất nước, nhượng cho miền Bắc
từ đèo Hải Vân trở ra.
Một buổi chiều nắng
héo hắt, tôi đến một quán bên đường
ở Quốc Lộ 1, gần đèo Hải Vân, ngồi
uống bia t́nh cờ nghe ông chủ quán nói chuyện với
vợ là dân và lính chạy từ phía Bắc vượt
đèo chạy về hướng Đà Nẵng. Tôi ra
khỏi quán, đứng bên đường lặng nh́n lên
đèo Hải Vân, những đoàn xe nhà binh chở những
quân lính trong đó có lính của Sư Đoàn 1 Bộ Binh,
Biệt Động Quân và Thủy Quân Lục Chiến...
từ Huế vượt đèo chạy qua. Tôi nghĩ
nhiều đến Nguyễn Tiến Dũng và Vũ
Đức Giang, hai bạn thân nhất của tôi vừa ra
tŕnh diện hai Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến,
và thầm tự hỏi không biết hai đứa đó có
c̣n sống hay không và đang ở đâu? Chu Kỳ
Đức, Nguyễn Đ́nh Ngọc, Nguyễn Đỗ Quan...
ra Sư Đoàn I Bộ Binh không biết đang làm ǵ? C̣n bao
nhiêu bạn cùng khóa khác đang hay vừa đến
đơn vị, chả biết đường lối ǵ
cả, không biết t́nh trạng ra sao?... Đứng từ
chiều đến lúc xẩm tối, nh́n lên đèo Hải
Vân giờ này đă biến thành một chuỗi sáng trên
trời cao v́ ánh sáng của những ngọn đèn của
đoàn xe nối tiếp nhau tưởng như không bao
giờ hết. Nh́n đoàn xe tôi chỉ mong ước sao
cho các bạn ḿnh Giang, Dũng, Đức, Ngọc, Quan...
cũng có ở trên những xe đó.
Những ngày sau đó Đà
Nẵng hỗn độn v́ những tin đồn. Dân
chúng bắt đầu được di tản bằng máy
bay. Những chuyến máy bay ở phi trường làm náo
động những người c̣n lại. Những
chuyện người tranh nhau, giành giật để có
chỗ thoát, người chết khi bám vào bánh xe khi máy bay
đang cất cánh, đều là những chuyện
thật.
Ngày 29 tháng Ba 1975, Đà Nẵng
chưa đánh đă di tản! Từ Quế Sơn tôi
chạy về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3. Không
thấy bóng một ông Sĩ Quan nào nữa. Chỉ c̣n vài
người lính đang nhặt nhạnh vài đồ
đạc lẩm cẩm. Họ ngạc nhiên khi thấy
tôi hăy c̣n lảng vảng và ngơ ngác. Gọi Tổng Y
Viện Duy Tân có th́ biết mọi người đă
di tản từ ngày hôm trước. Tôi cũng không
biết làm sao có phương tiện ra Đà Nẵng, không
lẽ lại chạy bộ nữa? Chuyện th́ dài ḍng,
nhưng vắn tắt tôi may gặp Lê Văn Thu, bác sĩ
QYHD 20, ra trường trên tôi một lớp, lái xe gắn
máy Honda chạy ra. Thu chở tôi ngược lại vào trong
trại lúc này đă gần như trống không, lấy cái
xe Bridgestone, một xe gắn máy cũ khác của anh
đưa cho tôi chạy. Vào Đà Nẵng, nhớ
đến anh ruột của Nguyễn Tiến Dũng là Nha
Sĩ Thiếu Tá Nguyễn Nhật Thăng, tôi ghé pḥng
mạch Nha Khoa của anh ở dưới phố
để rủ anh chạy ra bến tàu, th́ anh Thăng
đă đi rồi, nhưng thật bất ngờ gặp
Nguyễn Tiến Dũng, vừa thoát được
đến Đà Nẵng cũng ghé t́m anh ruột. Ôm nhau
mừng chảy nước mắt. Hỏi thăm ngay
về Vũ Đức Giang. Tiểu đoàn 1 Thủy Quân
Lục Chiến của Giang đă hoán chuyển chỗ
với tiểu đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến
của Tiến Dũng. Nguyễn Tiến Dũng về
gần Huế do đó chạy được đến
Đà Nẵng. Giang như vậy đă ở Quảng
Trị.
Đúng là số trời đă định, nếu Dũng và Giang không đổi chỗ th́ có lẽ lúc đó tôi không gặp Dũng. Không Dũng th́ Giang. Không Giang th́ Dũng. Cả hai đều là bạn thân thiết của tôi. Vậy thôi!
Tôi và Tiến Dũng may mắn không tưởng tượng, như có phép lạ giúp, thoát về được đến Cam Ranh. Nước biển Cam Ranh vẫn trong xanh mát rượi, băi cát vẫn trắng mịn với những con dă tràng xe cát, nhưng thành phố đă hỗn loạn. Toàn là người với quân phục và xe nhà binh, lác đác tiếng súng. Không được thêm tin tức ǵ của Giang. Những đơn vị quân đội chạy từ hướng Bắc xuống đang tái phối trí, rồi chỉ để sửa soạn di chuyển sâu thêm về hướng Nam! Các đoàn quân theo nhau rút lui. Màu đỏ của máu lan dần trên bản đồ h́nh chữ S từ Bắc xuống Nam. Các thành phố Cam Ranh, Nha Trang... rồi cũng tự nhiên bỏ ngỏ để bộ đội miền Bắc dễ dàng vào chiếm đóng. Triệt thoái và di tản nhanh đến nỗi có khi quân miền Bắc vài ngày sau mới đến kịp để tiếp thu. Chính họ cũng phải ngạc nhiên! Thật là kỳ lạ.
1 tháng Tư: mất Nha Trang và Quy Nhơn.
Tôi không hiểu ǵ cả! Chỉ biết chạy, rồi chạy, xong rồi lại chạy..., tuy đầu óc thỉnh thoảng lại nghĩ đến Vũ Đức Giang người bạn thân, hiền lành. Tôi theo Nguyễn Tiến Dũng lên một tàu Hải Quân từ Cam Ranh di tản về Vũng Tàu. Trên chiếc tàu Hải Quân đó, cả Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Thiếu Tướng Tư Lệnh Bùi Thế Lân, và quân lính chắc chỉ c̣n non một ngàn người. Nguyễn Bá Linh bạn cùng khóa QYHD 21 cũng vừa ra đơn vị, quần áo nhàu nát cũng ở trên tàu, kể chuyện rằng, trong cuộc triệt thoái hỗn loạn ở Thuận An, phải bơi ra biển đến tàu để t́m đường thoát. Tôi cố t́m Vũ Đức Giang mà không thấy. Khi hỏi thăm thêm mọi người cả người tôi lạnh cứng, khi biết tin Giang bị kẹt và bị bắt ở băi biển Thuận An. Nắng vàng trong sáng, biển xanh biếc bỗng nhạt nḥa. Chúng tôi thoát khỏi Cam Ranh ngày trước th́ ngày sau được tin thành phố di tản:
3 tháng Tư: mất Cam Ranh.
Rồi tàu hải quân cũng
đưa chúng tôi cũng về đến Vũng Tàu b́nh
yên và tôi t́m lại được tàn quân của Sư
Đoàn 3 Bộ Binh đang tái phối trí ở trại Vạn
Kiếp được vài ngày. Vào tŕnh diện Tiểu
Đoàn 3 Quân Y, tôi không gặp một sĩ quan nào cả. Ám
ảnh bởi h́nh ảnh tù tội, chết chóc của
bạn bè, đầu óc trống rỗng, mỏi mệt
chán chường và cũng chả biết làm ǵ ở đó
nữa, tôi trở về lại Sài G̣n. Tôi gặp lại
Trương Văn Như với quân phục nhảy dù
mới, đang sửa soạn theo đơn vị ra
trận chiến Khánh Dương. Đến lúc này vẫn
nhiều người tin tưởng sẽ có hiệp
định chia cắt lănh thổ từ khoảng giữa
miền Trung trở vào th́ sẽ được là vùng
tự do, không cộng sản.
Sài G̣n lên cơn sốt, Sài G̣n
hoảng hốt, khi một số dân đă bắt
đầu được Mỹ di tản bằng máy bay
sang đảo Guam. Tin đồn sẽ có đảo chánh
tạo niềm hy vọng cuối cùng khi Cựu Phó Tổng
Thống Nguyễn Cao Kỳ đang ra thị sát mặt
trận và tuyên bố sẽ ở lại chiến
đấu đến cùng.
Ngày 20 tháng Tư 1975, sau chiến
thắng oai hùng ở Xuân Lộc, Chuẩn Tướng Lê
Minh Đảo và Sư Đoàn 18 Bộ Binh phải
triệt thoái.
Ngày 21 tháng Tư 1975 Tổng
Thống Thiệu từ chức và khẳng định
với quốc dân và chiến hữu trên Truyền H́nh
Việt Nam là sẽ trở lại với Quân Đội
để chiến đấu. Ông trao quyền lại cho
Phó Tổng Thống già yếu Trần Văn Hương và
đêm 25 tháng Tư, ông Thiệu đă ở Đài Loan!
Thiếu Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ sau cũng bay mất trên trực thăng cùng Trung Tướng Ngô Quang Trưởng! Ông Nguyễn Cao Kỳ đă từng nói “Tôi sẽ biến Sài G̣n trở thành một Leningrad thứ hai”. Leningrad là trận chiến nổi tiếng của Hồng quân Liên Xô trước quân phát xít Đức, kéo dài gần trên dưới 1000 ngày đêm, bắt đầu từ tháng Bảy 1941.
Các vị Tướng như Thiếu
Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm
Văn Phú, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Chuẩn
Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Lê Nguyên
Vỹ... không có những lời tuyên bố lớn lao
như vậy đă ở lại tuẫn tiết. Đó là
những Tướng anh hùng liệt quốc, "những
Hoàng Diệu của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa".
Ngày 28 tháng Tư 1975 Cụ
Trần Văn Hương nhượng vị Tổng
Thống cho Đại Tướng Dương Văn Minh,
tưởng sẽ làm vừa ḷng Bắc Quân, nhưng t́nh
thế đă tuyệt vọng hoàn toàn.
Ngày 30 tháng Tư 1975, Tân
Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố
đầu hàng vô điều kiện. Từ bến tàu
Bạch Đằng, trong đêm tối, tôi may lên
được và theo tàu Hải Quân HQ1, những phút
cuối cùng trước khi tàu rời bến. Như ở
một giấc mộng hăi hùng, trong cơn hỗn loạn,
tôi di tản khỏi Sài G̣n, thành phố thân yêu của
tuổi trẻ thế hệ chúng tôi, đang "hấp
hối".
Những người bạn khác cũng may mắn và sau tôi gặp lại được là Nguyễn Tài Mai, Bạch Thế Thức, Nguyễn Tiến Dũng... Biết bao bạn cùng khóa Quân Y Hiện Dịch 21 chúng tôi không may như vậy phải ở lại cực khổ thể xác và tinh thần trong các trại cải tạo, đó là số phận của Trần Trung Ḥa, Trương Văn Như, Chu Kỳ Đức, Nguyễn Phan Khuê, Trương Ngọc Hiền, Nguyễn Đăng Cung, Nguyễn Chí Vỹ, Nguyễn Văn Quốc... Có những người sau đó chết mất xác, ở biển khơi, khi vượt biên như Nguyễn Trọng Nghĩa, Nguyễn Xuân Thiều...
Qua đến nước Mỹ, khá lâu tôi bặt tin, đến măi về sau mới " gặp" lại Vũ Đức Giang qua những chi tiết đọc được trong sách báo và một vài lần ở trong giấc mơ.
Trong quyển "Những Uất Hận
Trong Trận Chiến Mất Nước 1975" do Phạm
Huấn viết, chương 15 là những trang sách về "Những
Y Sĩ Tiền Tuyến". Vào những giờ phút
cuối cùng khi Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục
Chiến đang triệt thoái một cách tuyệt vọng
tại băi biển Thuận An:
"... Bác Sĩ
Vũ Đức Giang, Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn
7 Thủy Quân Lục Chiến dù đă lên chiếc LMC
đầu tiên, sáng ngày 26-3-1975 cùng với các thương
binh, nhưng v́ danh dự của một cấp chỉ huy,
anh lại trở xuống..."
Cao Xuân Huy, trong quyển sách lừng danh
"Tháng Ba Găy Súng". Quyển sách của những khôi hài
đen đầy máu, nước mắt, tàn bạo, căm
hờn...nói về cuộc triệt thoái của Thủy Quân
Lục Chiến. Đây là đoạn tác giả đă
bị bắt làm tù binh ở băi biển Thuận An:
"...Ngày 26
tháng 3 là ngày cả một Lữ Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến bị khoảng một đại đội du
kích Việt Cộng bắt sống. Chuyện không bao
giờ tin được đă xảy ra...
...Tôi c̣n gặp
lại cả một thằng bạn cũ, cùng học
với nhau hết bậc trung học ở trường
Nguyễn Trăi, khi chúng tôi đang bị trói chung bằng
một sợi dây điện dài. Vũ Đức Giang. Tôi
ngạc nhiên kêu lên:
- Giang, mày làm ǵ mà cũng bị bắt ở đây?
- Ơ Huy, cả chục năm mới gặp lại
mày.
- Tao hỏi mày làm cái giống ǵ mà cũng bị
bắt ở đây?
- Tao Thủy Quân Lục Chiến.
- Mẹ kiếp, cậu đếch tin, mày cũng dám
giết người à. Mà sao ở Thủy Quân Lục
Chiến tao không gặp mày.
-
Tao mới ra trường về Thủy Quân Lục
Chiến khoảng nửa tháng nay.
-
Mày bác sĩ hở?
-
Ừ, tao về tiểu đoàn 7..."
BS TQLC Phạm Vũ Bằng viết trong bài "Thủy Quân Lục Chiến-Binh Chủng Kiêu Hùng":
"...Theo các Quân Y tá LĐ
147 cho biết th́ Bác Sĩ Vũ Đức Giang và vài quân y
tá TĐ 7 khiêng thương binh lên tàu sau đó anh
điểm danh y tá TĐ 7 rồi tất cả cùng trở
xuống để tiếp tục cùng đồng
đội chiến đấu.
Khi tôi thay BS
Rậu làm Đại Đội Trưởng Quân Y LĐ
147 th́ một hôm Hạ Sĩ Nhất Quân Y Nguyễn Văn
Được - người sống sót từ “Pháp
Trường Cát Thuận An”- hỏi tôi:
-Ông thầy có
biết BS Vũ Đức Giang TĐ 7 không?
-Biết. Mà có
chuyện ǵ?
-Ổng ngon quá!
Ngày 26/3/1975 ổng và mấy đệ tử khiêng
thương binh lên tàu. Xong việc ổng điểm danh
từng y tá TĐ 7 một rồi tất cả xuống
tàu lên bờ về lại TĐ. Em giữ ổng lại
nói “BS trở lại th́ 100/100 là chết” nhưng ổng
trừng mắt la em “chú mày đừng xúi bậy, TĐ
đang chiến đấu sẽ có thêm thương b́nh,
anh bỏ đi sao đành” . Xong rồi ổng xuống tàu
đi dưới làn mưa đạn thượng liên
của VC, em nh́n mà thấy ớn. Em nói thiệt t́nh đó
ông thầy.
-Th́ tao có nói mày
không thiệt t́nh hồi nào đâu! Có điều chú mày
bậy thật, Bác Sĩ TQLC không bao giờ đào ngũ
trước hàng quân!..."
Và cũng trong "Những Uất Hận
Trong Trận Chiến Mất Nước 1975"
của Phạm Huấn, về Vũ Đức Giang:
"...Cuối năm
1976, lại một lần nữa, muốn bảo vệ
danh dự của một Quân Y Sĩ Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa, anh đă tự tử chết trong trại tù
ở phi trường Ái Tử, ngoài Đông Hà, Quảng
Trị..."
Cuối cùng bài "Khóc Bạn" của bác sĩ quân y Hoàng Thế Định, trên Tập San Y Sĩ Việt Nam tại Canada số 112, trang 119, viết về giây phút cuối cùng của Vũ Đức Giang năm 1976 tại trại tù cải tạo Ái Tử:
"...Buổi cơm chiều, Giang cáo bệnh không ăn. Gần cuối lán, ḷ ṃ tối, anh nằm trùm kín, im lặng...anh nằm trùm chăn im lặng. Anh em vẫn nghĩ là Giang bệnh, để yên anh ngủ. Khoảng một giờ sau, mọi người nghe Giang vùng mạnh mấy cái trong chăn rồi "ự, ự" lên mấy tiếng. Dược sĩ Thuận, người vẫn thường nằm cạnh Giang, vụt đứng dậy, chạy lại giật tung chăn trên người bạn... Mọi người xúm lại. Toàn thân Giang rung lên, co quắp tay chân rồi từ từ duỗi ra, bất động...
...Nguyễn Đ́nh Ái, Y sĩ trung úy trưng tập, cùng đơn vị với tôi. BS Ái giật chiếc ống nghe trên đầu nằm của Tôn Thất Thắng, Y tá trại 3. Ái vừa nghe tim vừa t́m mạch ở cườm tay bạn. Không c̣n nhịp tim mạch...
...Trong khi chờ đợi y tá Tôn Thất Mừng sửa soạn adrénaline, BS Ái bảo DS Thuận xoa bóp lồng ngực Giang, c̣n ḿnh th́ dùng phương pháp bouche à bouche, thổi hơi cho bạn. BS Ái chích Adrénaline trực tiếp vào cơ tim Giang và cùng DS Thuận tiếp tục làm cấp cứu hồi sinh
Dù biết rằng nếu có hiệu quả th́ trong vài phút, nhưng Ái và Thuận vẫn cố cứu bạn suốt nửa giờ. Vô vọng, hai người quỳ gối bên xác bạn...
...Tôi tin tài của BS Ái, biết chẳng c̣n ǵ cứu văn được nữa, nhưng vẫn đến ngồi bên Giang, lật chăn để nh́n bạn lần cuối. Tôi quan sát thấy đồng tử của người bạn xấu số đă hoàn toàn nở rộng.Thật hết rồi! Tôi ghé sát miệng Giang và ngửi mùi hăng hắc đặc biệt ở những người tự tử bằng Chloroquine..."
Năm 1976, Y Sĩ Trung Úy Hiện Dịch
Thủy Quân Lục Chiến Vũ Đức Giang qua
đời, "hưởng dương" 28 tuổi.
Tôi nhớ Vũ Đức Giang.
Tôi nghĩ đến hai em của Giang. Tôi nghĩ
đến Mai, người vợ chưa cưới
của Giang. Tôi nghĩ nhiều đến mẹ của
Giang...
Tôi nhớ nụ cười
hiền ḥa của Giang.
Tiếng hát Ngọc Long từ đâu đó vọng về:
"...Chiều mơ anh cầm đàn về Trường Sơn bát ngát, ngắm mây bay miệt mài tiếng hát...".
Vũ Đức Giang đă về với rặng Trường Sơn bát ngát, về với Hoàng Liên Sơn hùng vĩ.
Vũ Đức Giang đă ở lại với sông Hồng cuồn cuộn sóng đỏ và ở măi với ḍng Cửu Long xanh mát, mênh mông...
Phạm Anh Dũng
San Diego, California, USA
(viết xong tháng Ba 2025 để kỷ niệm 50 Năm Quốc Hận, Tháng Tư Đen 1975)
Danh Sách Quân Y Nha Dược Sĩ Hy Sinh Trong Cuộc Chiến
bị mất đă được chính thức thực hiện lại với sự giúp sức đáng cảm phục của BS Nguyễn Đức
Mạnh. Cũng xin cám ơn các BS Vĩnh Chánh và Cao Tấn Phương đă vẫn c̣n giữ và gửi lại cho chúng tôi copies.
Mời tất cả cùng xem, chuyển đến các Diễn Đàn Y Nha Dược và xin góp ư kiến nếu cần:
https://docs.google.com/spreadsheets/d/1dv_anqmgajt9sTpHIox9Wes7mWEYj3lTfM_vNbhrkJY/edit?usp=sharing