GS Nguyễn Mạnh Hùng – ĐHYK Huế Trường Xưa. Phần 2.

YKHuế 1973 - Lễ Dựng Bia các giáo sư Đức. Tại cửa hông của trường, nh́n sang trường Cán Sự Y Tế. Từ trái qua, ngồi: Các GS Lê Bá Nhàn, Lê Xuân Công, Lê Thanh Mlnh Châu, Nguyễn Mạnh Hùng, Lê Bá Vận. Đứng: Nguyễn Văn Chữ YK4, Tôn Thất Hứa YK1, Nguyễn Văn Bách YK4, Trần Tiễn Ngạc YK7 (áo trắng, dựa tường), Nguyễn Văn Thuận YK6.

---------

 

Tôi cũng có một vài câu chyện giữa tôi và Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng.

 

1- Đợt 2 Thi Công Xây Cơ Sở Trường YK Huế.

Cơ sở trường ĐH YK Sài G̣n, 217 Hồng Bàng, nay An Dương Vương được khởi công xây dựng với 50% ngân sách quốc gia, 50% viện trợ Mỹ và hoàn tất nhanh chóng năm 1965, khánh thành năm 1966.

Cơ sở trường ĐH YK Huế, 6 Ngô Quyền, do Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ vẽ kiểu, khởi thi công năm 1961 với 50% ngân sách quốc gia và tiếp theo sau đó 50% viện trợ từ Canada. Tuy nhiên do thời cuộc thi công kéo dài 14 năm măi đến năm 1975, miền Nam sụp đổ vẫn chưa hoàn tất. Thời gian kéo dài, vật giá leo thang nên phần xây cất bệnh viện thực hành theo đồ án ban đầu phải gác bỏ.

 

Ṭa nhà YK Huế 4 tầng, có h́nh chữ Y thân ngắn, hai cánh trái và phải dài, dang rộng gần như thẳng hàng, nh́n về sông Hương, là hướng Bắc.

Khởi đầu thi công, cuối năm 1962 hoàn tất 2/3 công tŕnh gồm thân và cánh trái của ṭa nhà, là cánh hướng về phía núi. Trường dọn về cơ sở mới đầu năm 1963.

Một ṭa nhà 3 tầng với nhiều căn hộ gần cổng sau của trường, (ra đường Nguyễn Huệ)  làm cư xá cũng được xây xong.

 

Từ thời điểm này trong nước và Huế nói riêng xẩy ra nhiều biến động chính trị. Thi công tiến hành chậm chạp, chờ đợi giải ngân và đến năm 1967 th́ cánh phải c̣n lại của ṭa nhà Y khoa được đắp móng, dựng khung sườn, song chưa kịp đổ nền, đúc sàn, chưa xây tường ngăn vách, lợp mái th́ biến cố Tết Mậu Thân 1968 xẩy đến. Trường Y Khoa di tản vào Sài G̣n đến hè năm 1969 mới trở về Huế.

 

Năm 1970 hợp đồng cho đấu thầu hoàn tất cánh phải để đưa vào sử dụng đă được phê duyệt song lần này nhà thầu gặp ”kỳ đà cản mũi” lợi hại khiến họ không thể thi công.

 

Số là sau biến cố Tết Mậu Thân đầu năm 1968, một số đông gia đ́nh đồng bào mất nhà cửa, kéo đến trú ở, che bạt, giăng màn, dựng vách phên chiếm cứ tầng trệt cánh phải của ṭa nhà nhiều năm, tạo nên một quang cảnh luộm thuộm, nhếch nhác, thầy tṛ trường Y buộc sống chung, nh́n măi quen mắt.

Chính quyền địa phương v́ lư do này nọ tránh né can thiệp giải tỏa bằng biện pháp hành chánh cứng rắn hoặc trục xuất đồng bào bằng vũ lực.

 

Sự việc kéo dài bế tắc cho măi đến lúc GS Nguyễn Mạnh Hùng phá vỡ được t́nh trạng ù ĺ vô lối. Ông khéo léo thuyết phục khiến các gia đ́nh ở đậu nhận thấy ở tạm bợ quá lâu là không hợp lư trong lúc t́nh h́nh chung đă yên ổn nên vui vẻ chịu rời cánh phải của trường, năm 1971. Nhà thầu lập tức khởi công đợt hai, hoàn tất được 2 tầng lầu và chuẩn bị chu tất nốt 2 tầng c̣n lại.

 

GS Hùng kể lại với tôi như vậy và ông rất hănh diện về sự thành công. Công lao của ông rất lớn song tại sao ông giảng dạy Dược lư lại dính líu đến vụ việc hóc búa này!

 

Trong bài viết “Cơ sở trường ĐH Y Khoa Huế 1961- 1975” đăng trong Đặc san Y khoa Huế Hải ngoại 2017, tôi trích đoạn sau:

 

Khoảng đầu năm 1972, GS Nguyễn Mạnh Hùng, giáo sư Dược lư, lúc đó có vẻ là Phó Khoa trưởng? (xem h́nh kèm) thời GS Bùi Duy Tâm là http://www.ykhoahuehaingoai.com/images/BTTH_1.jpgKhoa trưởng, nhưng ở Sài G̣n, gặp tôi và hỏi ư kiến:

           -Nhà thầu hoàn tất 2 lầu cánh phải, cho Trường hay có một số xi măng thặng dư, muốn xây thêm ǵ th́ cho họ biết sớm.

        .  Tôi ngẫm nghĩ (lúc đấy tôi chưa là Khoa Trưởng) rồi tươi cười, trả lời:

            -Hay là anh nói họ xây sân tennis đi, để cho sinh viên chơi, nơi đó rộng, đủ chỗ ḱa.

 

Tôi chỉ tay vào khoảng đất trước mặt trường, giáp với khu bệnh viện Bài Lao.

Tuy nhiên tôi thầm nghĩ xây sân tennis cho ra hồn rất nhiêu khê và tốn vật liệu, chưa chắc nhà thầu đồng ư.

Ấy vậy mà chỉ vài hôm sau tôi thấy thợ đă nện đất rải đá đúc bê tông, tráng xi măng để hoàn thành sân tennis cũng khá nhanh chóng.

“Ách giữa đàng, quàng vào cổ” ông giáo sư NM Hùng thật có chí t́nh với trường YK Huế. GS Hùng c̣n thích thú khoe với tôi rằng lối dạy của ông là đến lúc thi ông cho phép sinh viên đem theo tài liệu.

 

Đến mùa hè đỏ lửa Quảng Trị năm 1972 công tác xây cất dở chừng lại bị gián đoạn trong nhiều tháng cho đến khi t́nh h́nh trở lại yên ổn.

 

Khoảng đầu năm 1973 nhà thầu gặp tôi, đề nghị tương tự. Tôi đang lưỡng lự th́ trong sân rộng của ngôi biệt thự lầu tôi ở, thợ đă đến xây thêm một ga-ra tường gạch gồm 3 căn rộng răi, có cửa trước và đóng một bàn pingpong đặt trong căn bên. Ngôi biệt thự này nằm ở b́a khuôn viên trường Y, mặt tiền tại góc đường Trưng Trắc (nay Hai Bà Trưng) và Nguyễn Huệ là tài sản Đại Học Huế vừa thu hồi, chuyển về cho trường Y, dành cho chức vụ khoa trưởng của trường. Chủ thầu lại c̣n hỏi xin đóng giùm bàn ghế, tủ buffet, bộ salon, vặt vănh… họ cũng khéo lấy ḷng thủ trưởng cơ quan!

 

Năm 1975 Huế mất tôi chạy thoát vào Nam, biệt thự vắng chủ, một cơ quan nào đó nhanh tay quản lư. Trường Y tŕ trệ, phí công đ̣i, đành chịu mất nhà, đất mà hiện nay là khu vực thị tứ đắc địa, sầm uất ở phố đi bộ Hai Bà Trưng, Huế, tại hông Trường.

Sự thành lập các trường đại học trực thuộc Viện Đại học Huế

Tối hậu đến ngày 30/4/1975 th́ công tŕnh dở dang,   chỉ hoàn thiện được 3/4 cánh phải c̣n lại của ṭa nhà Y Khoa nhưng được đưa ngay vào sử dụng.

 

Tầng lầu chót thứ tư chỉ mới đúc sàn, chưa kịp ngăn vách, xây tường, đặt cửa, rộng thênh thang nh́n suốt chiều dài từ đằng này đến đằng kia. (Trên h́nh: cánh trái của ṭa nhà YK Huế, được hoàn tất rất sớm trong năm 1962).

 

2- GS Nguyễn Mạnh Hùng Thết Đăi.

Cuối tháng 3/1975 Huế, Đà Nẵng thất thủ, tôi và gia đinh phút chót chạy kịp vào Nha Trang rồi Sài G̣n, ở tạm tại số 3 Cao Thắng, Phú Nhuận với thân quyến bên vợ. Văn pḥng liên lạc của Đại học Huế đặt tại Sài G̣n, đường Duy Tân ghi địa chỉ của tất cả nhân viên và giáo chức của Viện di tản vào Sài G̣n.

Hai ông bà GS NM Hùng bỗng lái xe đến t́m tôi và nhất định mời tôi và nhà tôi đi nhà

hàng trong số nổi tiếng nhất thết đăi, thái độ vồn vă, Chúng tôi chuyện tṛ vui vẻ, đề cập lắm thứ. Trong câu chuyện ông tỏ ra thù địch gắt gao với GS Lê Thanh Minh Châu, viện trưởng Đại học Huế, chê bai, giận dữ.

 

Hồi ấy và cho đến bây giờ, gần nửa thế kỷ qua, tôi vẫn hồ nghi GS NM Hùng thết đăi là để bày tỏ sự cám ơn tôi, trong tư cách trưởng cơ quan, đă không hề gây khó dễ cho sự kiện sau này ông sống ở Sài G̣n, chỉ định kỳ bay ra Huế giảng dạy. Cũng có thể ông muốn tranh thủ sự đồng t́nh của tôi trong vụ tranh chấp với ông viện trưởng. Hai năm trước trong bức h́nh lễ dựng bia tại trường Y khoa  Huế năm 1973 kỷ niệm các cố giáo sư người Đức tử nạn th́ thấy hai ông ngồi cạnh nhau, chẳng sao.

 

Cuối hè năm 1972 hai giáo sư Bùi Duy Tâm và LT Minh Châu cũng đă đối đầu sống mái? về quyết định của bộ Giáo dục giải nhiệm khoa trưởng. T́nh h́nh thật căng thẳng, nhất là lúc các sinh viên được lôi cuốn vào cuộc chiến. Mỗi bên đều có thế mạnh, chiếm thượng phong thay đổi từng lúc, khó đoán chung cuộc cho đến phút chót sự việc đột nhiên ngă ngũ êm thấm. Việc này có tác động đến GS NM Hùng ít nhiều chăng?                    

 

Vào Sài G̣n quá đầu tháng tư tôi vội đến tiếp xúc với trường YK Sài G̣n để t́m sự hỗ trợ cũng như đến bộ Y tế, số 59 đường Hồng Thập Tự, nay là NTMinh Khai.

Tổng trưởng bộ Y tế, BS Huỳnh Văn Hưởn là bạn học cũ đồng khóa ở trường Y, sốt sắng đề nghị giao cho tôi Bệnh viện V́ Dân, làm giám đốc, tôi có thể dùng làm nơi thực tập cho sinh viên trường Y Huế, các thầy th́ ở Huế vào, cọng thêm các thầy đă ở sẵn trong này.

Tôi nhớ năm xưa GS Phạm Biểu Tâm, khoa trưởng trường Y Sài G̣n kiêm giám đốc Bệnh viện B́nh Dân. Song tiếc thay thời cuộc sau đó biến chuyển nhanh chóng, dồn dập… ai nấy chỉ nghĩ đến tháo chạy.

 

3- Tôi Đi Sàig̣n - BV Biên Ḥa Đóng Cửa  (Trích: “Một vài chuyện vui ở…”, Tập San YKH 2006, tr.147).
Dần dà nhiều người trong ban giảng huấn cũ bằng cách này cách khác đă rời Huế vào Nam. Cuối năm 83, tôi cũng vào Sàig̣n để xem t́nh thế.

Anh Lê NDưỡng, một nhân viên văn pḥng cũ BV Huế mách bảo “đến BV Biên Ḥa, có nhiều BS YK Huế lắm, BS Tứ, BS Lộ… Sáng hôm sau anh Dưỡng chở Honda tôi đi Biên Ḥa, đi đột xuất không thông báo trước.

 

BS Phan Xuân Tứ cùng anh em khác quá mừng rỡ kêu nhau ra chào đón thầy, và nhờ nhân viên đi t́m gọi các bác sĩ chưa có mặt lúc đó. BS Tứ hân hoan tuyên bố “bọn em nghỉ khám nghỉ mổ, đóng cửa bệnh viện hôm nay, để ra nhà hàng liên hoan gặp mặt mừng thầy”.Thấy tôi c̣n thắc mắc BS Tứ giải thích “ở đây bác sĩ toàn là tụi em, nay đi với thầy ra ngoài tất nhiên là bệnh viện đớng cửa nghỉ”.

Thầy tṛ ăn uống đến xế trưa, nhiều người hiến kế nói chung chuyển công tác về các BV tỉnh th́ dễ, BV Biên Ḥa th́ lại gần Sàig̣n, nhưng từ trước đến nay chưa bác sĩ nào ở Huế được chính thức chuyển vào Sàig̣n.

Sáng hôm sau tôi một ḿnh cũng đột xuất đến BV Chợ Quán là nơi có nhiều BSYK Huế công tác: BS Bửu Hàm, HĐắc Duy, Đinh Sơn Thắng… Thầy tṛ tụ họp đông đủ, vui vẻ, song không ra nhà hàng liên hoan, chỉ dùng thức giải khát của căntin của BV.

BS ĐS Thắng, có bộ râu mũi như Saddam Hussein, và trước đó do tôi bảo trợ luận án tốt nghiệp, tuyên bố “nếu Thầy muốn vào Sàig̣n mà gặp em là coi như trúng tủ, mà không tốn kém ǵ cả”. BS Thắng nói tiếp “Chủ nhật em và thầy Hùng (Tiến Sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, GS ĐH YK Huế) thường đi săn ở Thủ Đức với ông Mai CThọ (chủ tịch UBND thành phồ HCM). Tôi c̣n ngờ vực th́ BS Thắng giải thích “Thầy Hùng rất được Thành ủy và UBND thành phồ HCM o bế v́ là một trong 3 trí thức miền Nam đă giúp cho kinh tế sản xuất. Thầy Hùng bào chế các hóa chất dùng cho kỹ nghệ thành phố”.

BS Thắng nói thế mà đúng và có kết quả cụ thể.

 

Tôi đến viện dược phẩm Vanco nơi GS NM Hùng làm việc, xa xách 8 năm, sửng sốt thấy ông nay béo tốt, phương phi ước chừng bề ngang to gấp đôi trước, đồ sộ, vững chắc, thân h́nh như một tủ đứng kiên cố. Tuy nhiên ông biết huyết áp có khi cao quá và vẫn mời bác sĩ đến nhà thăm bệnh. GS Hùng tươi cười, niềm nở. Tôi nhắc đến tên Bs ĐS Thắng, kể qua công việc và trao cho ông lá đơn tôi xin chuyển công tác vào Thành phố. Sau gần một tuần lễ GS Hùng đưa lại cho tôi lá đơn với lời ghi của ông MC Thọ, đại ư chấp thuận đơn xin.

 

4- Đoạn Cuối Cuộc Đời.

Đầu thập niên 1990 GS NM Hùng vẫn hăng hái, say mê với công việc, xen sở thích nghệ sĩ, đàn địch, chơi violon tài hoa...  Tuy nhiên các khuấy động lần lượt kéo đến.  

Bắt đầu là gia đ́nh của người em vượt biên đi Mỹ, rồi gần một năm sau đến lượt ba cô gái út “đi chui bán chính thức” sang Tây. Người con rể đầu cũng đi Đức, để t́m đường bảo lănh cho vợ con. Và rồi đến lượt bà vợ (bà NM Hùng) và gia đ́nh Hào, con trai út cũng được các anh chị bảo lănh qua Strasbourg, Pháp. Nhà Tân Định chỉ c̣n lại gia đ́nh của Trung, con trai thứ và hai mẹ con bà Bích Vân, con gái đầu, cố thủ chờ ngày đến phiên, đi nốt.

 

Bà Bích Vân trong hồi kư “Bố Tôi, Thầy Hùng” kể lại trong đoạn chót:

“Thời gian này, Bố tôi rất thường đến thăm. Khi th́ rủ đi ăn tiệm, khi th́ đi Đalat, khi th́ đi Vũng Tầu. Tội nghiệp, Bố tôi quay như cái chong chóng, mệt đứ đừ mà vẫn phải quay. Căn bệnh tiểu đường (diabète) của Bố tôi phát sinh từ đây, chắc vậy. Ngày nào cũng phải đi ăn tiệm đầy những mỡ màng. Nay tiệc tùng, mốt đăi đằng tiếp tân… Cái nghiệp của Bố tôi, mẹ tôi thường bảo vậy. Chịu đựng măi như thế, chịu ǵ thấu. Sức người cũng có hạn. Vâng, sức người cũng có hạn. Cái h́nh chụp Bố tôi gửi sang, năm cuối cùng trước khi ngă bệnh, anh em chúng tôi nh́n không nhận ra. Gầy xọp, già trước tuổi. Mẹ tôi nh́n h́nh chỉ chép miệng rồi thở dài, không nói ǵ cả.

 

Hè năm đó, năm 95, như mọi năm, gia đ́nh em Loan và em Hằng về VN chơi và thăm Bố tôi. Thế rồi đùng một cái, nghe tin Bố tôi được chở vào nhà thương, mê man.

Anh bác sĩ Trần Viết Phồn chăm sóc cho Thầy, mấy đứa con gái săn sóc cho Bố những giây phút cuối. Ở bên này, chúng tôi quưnh quáng gọi khắp các hăng bán vé máy bay để điều đ́nh mua cho bằng được vé, bay về ngay lập tức, ở bên kia xin nhập cảnh hộ. May ra th́ kịp, các em bên đó bảo vậy. Nhưng không kịp nữa, em Hào về đến nơi, thằng con trai đại diện các anh chị em bên này về đến nơi, chỉ kịp nh́n thấy Bố lần cuối rồi nắp áo quan được đậy lại…”

 

5- Lời Kết.

GS Nguyễn Mạnh Hùng tạ thế ở Sài G̣n năm 1995, hưởng thọ 65 tuổi. Những bạn bè, đồng nghiệp của ông ở trường Y, kẻ ở Huế, người sống ở nước ngoài. Duy có học tṛ cũ, BS Trần Viết Phồn, cựu sinh viên YK Huế khóa #1, tốt nghiệp năm 1967 - là khóa đầu tiên GS NM Hùng dạy Dược lư ở Huế - đă ở bên cạnh, những khoảng khắc sau cùng chăm sóc ông trên giường bệnh.

 

Sinh viên YK Huế khóa #8 là khóa cuối cùng học Dược lư với GS NM Hùng trọn vẹn đă viết về ông: “… giọng nói thầy sang sảng rơ ràng… Học thầy phải ghi chép những ǵ thầy giảng ... v́ sau này sẽ dùng để thi...” (Xem Phần 1).

 

BS Vơ Đại Lợi, cựu sinh viên YK Huế khóa #8 vừa qua trên diễn đàn YK Huế Hải ngoại, ngày 7 tháng 12/2023 loan báo tchức buổi HỘI NGỘ 50 NĂM NGÀY RA TRƯỜNG tại Huế dự kiến trong tháng 4/2024.

Các cựu sinh viên của khóa #8 ra trường năm 1974, đến nay ½ thế kỷ đă trôi qua (1974-2024) từ năm châu sẽ trở về Huế RẤT MONG CÙNG NHAU HỌP MẶT sau rất nhiều biến cố của cuộc đời
Buổi hội ngộ sẽ kéo dài nhiều ngày và các cựu sinh viên tất có dịp nhắc nhở đến các thầy cô cũ với ḷng tri ân, đặc biệt các vị đă khuất bóng, nói chung và nhất là các vị đă có dạy dỗ, chỉ bảo ở lớp khóa #8 của họ, ”nhất tự vi sư và nửa chữ cũng là thầy”!

 

Bài viết “GS Nguyễn Mạnh Hùng - ĐHYK Huế Trường Xưa” giúp các bạn dự hội ngộ hiểu rơ về thầy cũ, trường xưa, giới thiệu với các bạn GSTS Nguyễn Mạnh Hùng, một vị thầy dạy và hỏi thi độc đáo, tận tâm và chí t́nh góp phần xây dựng cơ sở Đại học YK Huế, mái trường xưa, một vị thầy ngoài Huế đă sống với Huế, thực ḷng yêu Huế.

 

Lê Bá Vận.

 

 

A picture containing text, outdoor, white, old

Description automatically generated

 

https://ykhoahue13.files.wordpress.com/2011/02/dhyk-hue1.jpg

+ H́nh 1: Trường ĐH YK Huế 1975. Thi công kéo dài 14 năm (1961-1975) vẫn chưa hoàn tất. Lưu ư: chiếc thang sắt màu đen c̣n gác trước cánh phải của ṭa nhà.  + H́nh 2: Ṭa nhà Đại học Y Dược Huế 2024. Bệnh viên thực hành nằm mé sau, số 41-51 đường Nguyễn Huệ được thành lập tháng 10/2002 với 700 giường.

 

 

          *** Đọc lại phần 1: http://ykhoahuehaingoai.com/99do/GSNgMHung.p1.htm